Vì sao phụ nữ bị bạo lực tình dục lại im lặng?
Thiên Nhi-Zingnews
Phần lớn nạn nhân của bạo lực bị nhiều nỗi sợ bủa vây: sợ cộng đồng đổ lỗi, sợ không ai ủng hộ, sợ đám đông vùi dập hơn những gì vừa phải trải qua. Từ đó, họ không dám lên tiếng.
Thời gian gần đây, dư luận bức xúc trước một số sự việc bạo lực tình dục mà nạn nhân là phụ nữ trẻ. Có không ít ý kiến khác nhau xung quanh chủ đề này.
Việc lợi dụng tiền bạc, quyền lực, sức mạnh, vị thế để ép buộc quan hệ tình dục tạo ra sự lệ thuộc khó gỡ là câu chuyện xảy ra trong không ít bối cảnh văn hóa xã hội khác nhau.
Nhìn nhận đó là tội lỗi từ phía người gây ra bạo lực hay còn bao gồm lỗi của nạn nhân luôn là chủ đề gây tranh cãi. Cách đánh giá này có thể tạo ra sức ép trong việc xét xử người có tội hay tạo ra bế tắc thúc đẩy thêm sự im lặng của các nạn nhân trước tội ác.
Tại tọa đàm trực tuyến “Không đổ lỗi” do Mạng lưới Ngăn ngừa và Ứng phó Bạo lực Giới Việt Nam (GBVNet) tổ chức ngày 5/4, vấn đề định kiến, khuôn mẫu xã hội trực tiếp và gián tiếp gây ảnh hưởng đến bạo lực tình dục với phụ nữ được bàn luận.
90% nạn nhân không tìm sự trợ giúp
Từng tham gia nhiều nghiên cứu về bạo lực giới ở Việt Nam, TS Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Xã hội (ISDS), nhận định sự im lặng của nạn nhân bạo lực luôn là vấn đề nhức nhối.
Bà dẫn khảo sát đầu tiên về bạo lực đối với phụ nữ được công bố năm 2010, trong đó, 58% phụ nữ Việt Nam cho biết họ từng là nạn nhân bạo lực từ phía người chồng ít nhất một lần trong đời. Hơn 90% nạn nhân không bao giờ tìm kiếm sự trợ giúp.
Năm 2019, cuộc nghiên cứu quốc gia đó được lặp lại. Những phụ nữ Việt Nam ít nhất một lần chịu hình thức bạo lực từ chồng/người yêu của mình là 63%. Con số nhắc lại một cách đau lòng là hơn 90% nạn nhân không tìm kiếm bất kỳ sự trợ giúp nào từ phía các cơ quan chức năng lẽ ra phải giúp họ trong tình huống như vậy. Chỉ có 5% tìm đến công an, nhưng những trường hợp này thường là không thể giấu nổi nữa.
Sự im lặng của nạn nhân, với con số 90% lặp lại từ năm 2010 đến 2019, là vấn đề nhức nhối. Câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao các nạn nhân im lặng? Họ sợ hãi điều gì?
“Có lẽ nạn nhân đã cân nhắc kỹ rằng nếu lên tiếng, mình có thể bị vùi dập hơn nữa. Bạo hành từ phía dư luận xã hội, cộng đồng xung quanh có thể còn nghiêm trọng hơn những gì họ phải trải qua trong gia đình”, TS Khuất Thu Hồng nhận định.
Bà Nguyễn Vân Anh, Giám đốc tổ chức CSAGA, trích dẫn ý kiến của TS Hoàng Tú Anh, Chủ tịch GBVNet có nghiên cứu nhiều năm về giới và bạo lực giới, rằng người ta chỉ bảo vệ tình trạng không bị bạo lực cho những ai được dư luận đánh giá theo khuôn mẫu của họ là có phẩm chất tốt, tạm gọi là “gái ngoan”.
Nhận định về vấn đề này, TS Khuất Thu Hồng nói: “Thật mỉa mai khi nạn nhân còn được phân chia thành nhóm đáng được bảo vệ hay không. Đã là nạn nhân lại tiếp tục bị ‘nạn nhân hóa’ thêm lần nữa”.
Theo đó, khi nghe những câu chuyện về bạo lực, sự rủi ro của ai đó, đặc biệt là về bạo lực tình dục, luôn có sự phân hóa như vậy, từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Người ta sẽ đặt câu hỏi rằng “Tại sao cô/chị/bé gái đó lại bị bạo hành như vậy?”, “Có gì đó ở con người ấy mà họ lại bị xâm hại?”, “Tại sao kẻ thủ ác lại không xâm hại người khác?”. Từ đó, đám đông bắt đầu tìm cách quy kết, đổ lỗi cho nạn nhân.
“Chính việc quy kết trách nhiệm, đổ lỗi, nâng sự việc lên thành bản chất của nạn nhân để kết tội là cách đổ lỗi tàn nhẫn, độc địa nhất”, Viện trưởng ISDS khẳng định.
Theo TS Trần Kiên, Phó Viện trưởng ISDS, đại diện Diễn đàn Kết nối nam giới vì bình đẳng giới và phát triển bền vững (VNMenNet), đổ lỗi cho nạn nhân là khái niệm phổ biến, không phải chỉ ở Việt Nam. Khái niệm này đã xuất hiện và được thảo luận, nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực nhưng có lẽ xuất hiện và được định hình chính thức trong một tác phẩm từ những năm 1970-1971.
Khi đó, người ta cố gắng đưa ra định nghĩa chung về khái niệm đổ lỗi cho nạn nhân như việc quy kết trách nhiệm cho hành vi phạm tội hoặc tai nạn nào đó xảy ra là do lỗi toàn bộ hoặc một phần là xuất phát từ phía người bị hại.
Có 2 mô hình chính của đổ lỗi cho nạn nhân từ góc độ hành vi. Thứ nhất là sự phản ứng mang tính thụ động, thậm chí lảng tránh của những người có trách nhiệm. Ví như điều tra viên, công tố viên, bảo trợ xã hội, bác sĩ… tiếp cận với nạn nhân, những người đang có nhu cầu được bảo vệ, nhưng lại có thái độ tiêu cực, thụ động. Điều đó rất phổ biến ở Việt Nam.
Thứ hai là chủ động. Đó là những chủ thể khác nhau trong xã hội hoặc trong quan hệ pháp luật lên tiếng nhưng lại tìm cách giải thích rằng hành vi phạm pháp, tội phạm, tai nạn đó xảy ra là do lỗi của nạn nhân. Họ chủ động quy kết trách nhiệm cho người trong cuộc, rằng “Phải như nào người ta mới đối xử với mình như vậy”.
Trong nhiều nghiên cứu trên thế giới về lý do tội phạm liên quan trong lĩnh vực tình dục lại khó xử lý hoặc xử lý không hiệu quả, một phần do sự lảng tránh, thiếu trách nhiệm từ người có thẩm quyền; sau đó là xã hội tạo sức ép cho nạn nhân khiến cho những người xử lý chùn tay.
Theo ông Kiên, sự xuất hiện của các loại hình, công cụ, phương tiện mới như mạng xã hội khiến cho việc đổ lỗi càng trở nên dễ dàng.
Bà Vân Anh đồng tình rằng nạn nhân bạo lực tình dục bây giờ thậm chí phải đối mặt với dư luận và tình trạng đổ lỗi kinh khủng hơn trước đây. Vẫn là thái độ đổ lỗi nhưng nếu được lan truyền bằng đông đảo, tấn công trực diện thì chuyện đó sẽ còn kinh khủng hơn.
Hậu quả đau lòng
TS Khuất Thu Hồng cho biết rất nhiều sự việc vì sự đổ lỗi mà nạn nhân phải trả giá đắt.
Năm 2015, một nữ sinh 15 tuổi ở Quảng Bình bị bạn trai tung clip nóng lên mạng. Mọi người quay sang xỉa xói, sỉ nhục cô bé đến mức em phải uống thuốc sâu tự vẫn.
Năm 2017, bé gái 13 tuổi ở Cà Mau bị hàng xóm xâm hại tình dục. Mẹ nạn nhân tố cáo lên công an nhưng qua điều tra, cơ quan chức năng kết luận không có sự việc như vậy. Cháu bé uất ức uống thuốc sâu và qua đời sau ít ngày nằm viện.
“Nạn nhân không chết vì bị xâm hại mà chết vì những lời độc địa của hàng xóm láng giềng, cộng đồng xung quanh vì sự đổ lỗi. Do đó, cần phải lên tiếng để nạn nhân không phải chết, tìm đến đường cùng, cúi đầu xấu hổ, bán xới đi nơi khác sinh sống mà có thể sống tiếp. Không ai đáng phải chết vì bị xâm hại, đánh đập, bạo hành”, bà Hồng nói.
TS Trần Kiên cho rằng nếu ai cũng ý thức được phát ngôn của mình, rằng “lời nói đọi máu” thì những hậu quả đau lòng từ việc đổ lỗi sẽ không tái diễn. “Khi có hành vi vi phạm xảy ra, hãy để cho điều tra viên điều tra, viện kiểm sát truy tố, tòa án xét xử, đừng ý kiến ra, ý kiến vào, nói đó là lỗi của ai”.
Đọc tiếp bài từ LINK gốc tại đây Vì sao phụ nữ bị bạo lực tình dục lại im lặng? - Gender - ZINGNEWS.VN