Tại Sao Chúng Ta Cần Nghiên Cứu về Giới

 



Phụ Nữ Bị Mất Vị Thế Trong Môi Trường Học Thuật: Tại Sao Chúng Ta Cần Nghiên Cứu về Giới

Tác giả/Author: Michelle Smith, Deakin University

Người dịch/Translator: Coco

 

Đ tr li cho v hiếp dâm Steubenville, nhc sĩ Henry Rollins đã gợi ý rằng lãnh vực nghiên cu v ph n nên được đưa vào chương trình ging dy ở các trường trung hc. Rollins đ xut rng nếu nhng người tr hiu rng ph n, vi tư cách là anh hùng chiến tranh, chính tr gia, nhà văn và nhà cách mng, “đã phi đi mt vi nhng điu kin b đe da trong nhiu thi đi thì việc đưa lãnh vực nghiên cứu về phụ nữ s giúp ci thin s tôn trng đi vi ph n.

 

Khi chúng tôi bày t s phn n đi vi văn hóa hiếp dâm và các biu hin coi thường phụ nữ trong thi đi của hu n quyn” thì  vic h trợ có môn học về gii trong trưng hc là điu đúng đắn và hp lý. Trong bi cnh hiện nay, tht đáng kinh ngc khi thy các trường đi hc Úc đang loi b chuyên ngành nghiên cu v gii.

 

Đi hc Queensland đã có chương trình nghiên cu v gii trong 41 năm. Trường có kế hoch ngng chuyên ngành này t năm 2014. Điu này có nghĩa là chuyên ngành nghiên cu vềgii cui cùng trong tiu bang bị biến mất. Sinh viên  của trường đã lên kế hoch biu tình đ phn đi quyết đnh này.

 

Bn thân chương trình này, cũng như nhiu trường đi hc, không có đi ngũ chuyên ngành được đào tạo bài bản và tn tâm; vì thế, nó đã được các đi ngũ của các ngành khác bao gm: lch s, tiếng Anh và triết hc, đ ging dy các môn hc trong chuyên ngành.

 

Năm nay chúng ta cũng chứng kiến Đại Học Wollongong loại bỏ chuyên ngành về giới. Và năm 2012, Đại Học La Trobe bắt đầu tái cơ cấu Khoa xã hội nhân văn của mình và chương trình nghiên cứu về giới, tình dục và sự đa dạng đang bị hăm he ngừng hoạt động. Điều này đã gây ra sự phản đối lớn đối với sinh viên trong trường.

 

Đi hc Melbourne đã b chuyên ngành nghiên cu v gii vào năm 2008. Nhưng sinh viên liên tục thích học và quan tâm đến chuyên ngành này . Vì thế, trường đã phải tuyển mt ging viên mi v nghiên cu v gii vào năm 2011 và chuyên ngành này đã được phc hi.

 

Tuy nhiên, nhìn chung, xu hướng gim s lượng chuyên ngành về xã hội nhân văn đang gây nguy him cho s tn ti chính thc ca chuyên ngành nghiên cu v gii trong các trường đi hc ở Úc.

 

Vic tuyn sinh các môn hc trong các chương trình này rt cao, nhưng s lượng sinh viên theo hc chuyên ngành nghiên cu v gii thường ít.

 

Hiện có hơn 80 sinh viên hin đang theo hc môn nhập môn về gii ca UQ. Tuy nhiên, Trưởng khoa khoa học xã hội- Fred D'Agostino đã bin minh cho vic loi b chương trình này vì ch có 13 sinh viên theo hc chuyên này trong năm nay. Mc dù, họ đã loi b dn các nghiên cu v gii cp đ Danh d vào năm 2005, nhưng các sinh viên vn cam kết theo đui chuyên ngành này.

 

D'Agostino khng đnh rng "hu hết" các môn hc v gii s tiếp tc được ging dy ti UQ. S khác bit chính là sinh viên s không còn tt nghip vi chuyên ngành nghiên cu v gii và kh năng theo đui nghiên cu sau đi hc trong lĩnh vc này ti các cơ s khác s b nh hưởng.

 

Nếu các môn hc tiếp tc được ging dy thì vic loi b chuyên ngành s tiết kim được bao nhiêu? Cái giá phải trả là việc xóa b mt lĩnh vc liên ngành quan trng này là gì? Tuy nhiên, vic gii th dn dn các chương trình nghiên cu v gii không th được xem thun túy là các quyết đnh kinh tế hoc da trên nhu cu, mà nó tiềm ẩn những yếu tố khác.

 

Nhng khóa hc này ny sinh t phong trào ph n vào đu nhng năm 1970. Chúng được phát triển và khơi dy từ các hot đng vì quyn ca ph n và nhm mc đích phn đi và phê phán tư duy gia trưởng và nam trịnng n trong các ngành hc thut. Trong nhiu trường hp, các cuộc đấu tranh đã din ra đ khi đng nghiên cu v ph n và n quyn là nhng lĩnh vc nghiên cu chính đáng.

 

Nhà hot đng và hc gi Merle Thornton đã dy môn nghiên cu đu tiên v ph n ti UQ vào năm 1972, xây dựng chương trình này vi Giáo sư Carole Ferrier vào năm sau. Đó là mt thách thc đi vi hin trng ging như khi Thornton xích mình vào quán bar ca Khách sn Regatta Brisbane cùng vi Rosalie Bogner vào năm 1965 đ phn đi vic loi tr ph n ở các quán bar công cng.

 

Khi mt khóa hc dành cho ph n được đưa ra ti cuc hp ca Hội đồng ngành khoa học xã hội và nhân văn ti Đi hc Flinders vào năm 1972, nó đã b chế giu. Mt giáo sư người Tây Ban Nha đã lan truyn mt đ xut đùa cợt gia các thành viên nam ca Hi đng v mt khóa hc liên quan đến S siêu vit v triết hc, xã hi, tình dc và ngh thut ca Tauromachy [đu bò]. Phát biểu đó coi thường chính khái nim v nghiên cu ph n.

 

Các trường đi hc thường gi ý rng các hc gi tiên phong v n quyn khi xướng các khóa hc này đã thành công đến mc “khái niệm gii gi đây tr thành mt phn không th thiếu trong hu hết các môn hc. Rõ ràng đã có nhng biến đi trong xã hi và văn hóa đi hc  của Úc k t nhng năm 1970. Tuy nhiên, họ lý giải đơn gin rằng các bộ môn tiếng Anh khi xây dựng bộ môn thì đều có lồng ghép các môn học có liên quan đến nhà văn n. Như vậy, nó sẽ không làm mt đi nhu cu v mt không gian riêng bit đ tp trung vào gii  trong môi trường học thuật.

 

Ngày nay, chúng ta phi vt ln vi thc tế v tình trng liên tục bịk th ph n và phân bit gii tính mc dù đt nước chúng ta đã đt được bình đng gii chính thc. Bây gi không phi là lúc đ loi b các khóa hc đã và đang giúp chúng ta hiu vểcác vấn đềgii tác đng như thế nào đến tt c chúng ta.

 

Báo The Conversation và tác gi Michelle SmithDeakin University cho phép Gendertalkviet dch sang tiếng Vit và đăng toàn văn. Thay mt cho, Ban Biên Tp Gender Talk, chúng tôi xin gi li cám ơn chân thành ti Tác gi và Báo The Conversation cho phép chúng tôi đăng li bài toàn văn. S đóng góp ca Quý Báo The Conversation và tác gi rt quý giá và ý nghĩa. 

This article is republished from The Conversation under a Creative Commons license.

Women lost in the academy: why we need gender studies

Ngày 16 tháng 11 năm 2023

Link gc: https://theconversation.com/women-lost-in-the-academy-why-we-need-gender-studies-13474