Phụ Nữ Trong Quân Đội Úc: Tuyến Đầu của Cuộc Chiến Giới Tính

 


Tác giả/Author: Michelle Smith, Deakin University

Người dịch/Translator: Doãn Thi Ngọc, Hoa Sen University

 

 

Kế hoạch gần đây cho phép phụ nữ đảm nhận vai trò chiến đấu ở tiền tuyến trong quân đội Úc kể từ năm 2016 đã xóa bỏ một cách chính thức những rào cản cuối cùng đối với việc tham gia của phụ nữ vào mọi lĩnh vực.

 

Không có gì ngạc nhiên khi việc phụ nữ tham chiến tiếp tục khơi dậy những nỗi sợ hãi quen thuộc, xuất phát từ những quan niệm truyền thống về nữ tính, vốn đã ngăn cản phụ nữ phát huy tiềm năng của mình.

 

Chẳng hạn, quan niệm cho rằng phụ nữ là yếu đuối về thể chất và có thể làm chậm bước tiến của các đơn vị chiến đấu; hoặc quan niệm cho rằng bản năng của đàn ông là bảo vệ phụ nữ, nên sự hiện diện của phụ nữ trên chiến trường sẽ gây nguy hiểm cho họ. Ngoài ra, còn có định kiến rằng nữ quân nhân dễ bị tấn công tình dục hay hiếp dâm.

 

Để hiểu rõ hơn những niềm tin này, chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng những lập luận từng đã được sử dụng để hạn chế phụ nữ trong lịch sử hiện đại.

 

Vào thế kỷ 19, quan niệm về “năng lượng giới hạn” cho rằng các bé gái ở độ tuổi vị thành niên không nên học tập quá mức, nếu không sẽ ảnh hưởng tới các cơ quan sinh sản của họ.

 

Hay một lập luận không có cơ sở như “Lao động chân tay hoặc trí óc trong những năm sinh sản của phụ nữ không chỉ không nữ tính mà còn gây bất lợi cho giống nòi”.

 

Những lời giải thích bán khoa học ở trên xuất phát từ quan niệm sai lầm về sự yếu đuối và kém cỏi về mặt trí tuệ của phụ nữ và quan điểm trên cũng trở thành lời tiên tri tự ứng nghiệm đã khiến phụ nữ và bé gái ngần ngại theo đuổi con đường tri thức-giáo dục đại học và thể thao.

 

Hầu hết phụ nữ sẽ không bao giờ mạnh mẽ hoặc có sức bền như hầu hết đàn ông. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản phụ nữ đảm nhận phần lớn công việc sản xuất nặng nhọc trong Thế chiến II, những công việc được xem là của đàn ông trước đây.

 

Ngày nay, không phải tất cả các thành viên của quân đội Hoa Kỳ đều là những chàng trai trẻ cao lớn, cơ bắp giống như những diễn viên quần chúng trong một bộ phim của Jean-Claude Van Damme.

 

Với những thay đổi trong chiến tranh và bản chất kéo dài của xung đột ở Trung Đông, những quân nhân thấp bé, nhẹ cân hơn, hay đeo kính, hay những người đàn ông từng có tiền sử rối loạn thiếu tập trung (ADD) và ngay cả phụ nữ cũng đã tham gia hàng ngũ quân đội.

 

Nếu một tỷ lệ nhỏ phụ nữ muốn phục vụ trong quân đội và có thể đáp ứng các tiêu chuẩn về thể chất và tâm lý cũng giống nam giới, thì việc từ chối họ vì do giới tính lại là hình thức phân biệt giới tính.

 

Nếu chúng ta chấp nhận rằng không phải tất cả các thành viên trong quân đội đều khỏe mạnh và thông minh như nhau, thì các lập luận phản đối việc phụ nữ tham chiến chỉ phản ánh nỗi lo rằng họ trở thành gánh nặng cho đồng đội nam.

 

Một số người cho rằng nam quân nhân có xu hướng phải bảo vệ phụ nữ khỏi bị thương hoặc nguy cơ bị cưỡng hiếp bởi kẻ thù.

 

Nhưng thực tế cũng cho thấy, việc nam giới bị tra tấn trong chiến tranh cũng không đảm bảo sự an toàn cho họ khi bị ngược đãi. Như Giáo sư Catherine Lumby chỉ ra, chúng ta cũng nên kinh hoàng như nhau về việc bất kỳ người đồng loại nào trong chiến tranh bị thương, bị tra tấn, bị tấn công tình dục, hoặc tử vong, dù là nam hay nữ.

 

Những lập luận phản đối cũng quên mất rằng phụ nữ từ xa xưa đã sẵn sàng dấn thân vào các vùng chiến sự với vai trò là y tá, nhân viên cứu thương và nhân viên cứu trợ.

 

Những người phụ nữ đầu tiên phục vụ với tư cách là y tá trong quân đội Úc từ năm 1899, với hàng nghìn người làm việc ở nước ngoài trong Chiến tranh Boer lần hai, Thế chiến thứ nhất và các cuộc chiến tranh sau đó.

 

Hàng triệu phụ nữ khác không tự nguyện trở thành nạn nhân của chiến tranh, dưới tư cách là thường dân, nhưng bị cuốn vào xung đột-cuộc sống của họ cũng bị đe dọa không kém gì cac quân nhân thuộc Lục quân, Hải quân hay Không quân.

 

Trong Trận chiến nước Anh, những người phụ nữ thường dân đã thực hiện những chiến công dũng cảm và được trao tặng danh hiệu anh hùng.

 

Ví dụ như bà Joyce Fagge- một thành viên cao cấp của Hội Nữ Hướng đạo, đã trèo qua đống đổ nát của một ngôi nhà bị tấn công bằng đạn pháo tầm xa để giải cứu cư dân duy nhất còn sống sót, buộc chặt động mạch đùi của anh ta trong khi một quả đạn pháo khác rơi xuống gần đó.

 

Một lãnh đạo khác-Ủy viên Hội Nữ Hướng đạo Quận Canterbury City- đã một mình dập tắt ngọn lửa trong một tòa nhà ba tầng trong suốt ba cuộc không kích, giũa lúc bom cháy và mảnh đạn pháo rơi xung quanh bà.

 

Ngay cả một người lãnh đạo khiêm tốn của Brownie Guide, bà Peggy Prince, cũng đã dũng cảm chèo thuyền ra cứu một phi công bị rơi xuống eo biển Anh-Manche.

 

Nếu chúng ta phá bỏ quan điểm định kiến về khả năng của các cô gái và phụ nữ, chúng ta có thể ngạc nhiên về kết quả bất ngờ.

 

Trong Thế chiến thứ nhất, 90 Nữ hướng đạo sinh đã làm sứ giả cho MI5 ở London. Họ được giao nhiệm vụ truyền đạt bằng lời những thông tin tuyệt mật.

 

Ban đầu, Hướng đạo sinh nam đã được chọn, nhưng do họ tỏ ra quá lắm lời và không đáng tin cậy bằng các cô gái-những thể hiện trách nhiệm cao và nghiêm túc trong công việc của mình.

 

Như ví dụ này cho thấy, chúng ta cần đưa ra quyết định dựa trên năng lực cá nhân,  chứ không phải định kiến giới hay quan niệm cố hữu về những gì phụ nữ có thể làm.

 

Chiến tranh không nên được ca ngợi – đó là kết quả của xã hội gia trưởng và thường gây ra hậu quả nặng nề cho phụ nữ trên toàn thế giới.

 

Như vậy, việc thừa nhận rằng một số phụ nữ có khả năng chiến đấu cùng nam giới là một bước tiến tiến bộ hướng tới bình đẳng.

 

Sẽ lý tưởng hơn nếu nước Úc không phải tham chiến vào năm 2016. Tuy nhiên, nếu chiến tranh xảy ra, sự hiện diện của phụ nữ ở tuyến đầu có thể giúp phả bỏ định kiến giới về sự yếu đuối, về sự dễ bị tổn thương, bản năng nuôi dưỡng và nhu cầu được nam giới bảo vệ.

 

Chính những huyền thoại như thế này là lý do khiến phụ nữ vẫn đang đấu tranh và tìm kiếm bình đẳng giới thực chất.

 

Báo The Conversation và tác giả Michelle SmithDeakin University cho phép Gendertalkviet dịch sang tiếng Việt và đăng toàn văn. Thay mặt cho, Ban Biên Tập Gender Talk, chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Tác giả và Báo The Conversation cho phép chúng tôi đăng lại bài toàn văn. Sự đóng góp của Quý Báo The Conversation và tác giả rất quý giá và ý nghĩa. 

Link gốc: https://theconversation.com/women-in-australias-military-on-the-frontline-of-the-gender-war-3711

Không có nhận xét nào: