QUAN ĐIỂM THẾ MẠNH TRONG THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (Strengths Perspective in Social Work Practice)
Nguồn ảnh: www.amazon.com
QUAN ĐIỂM THẾ MẠNH TRONG THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI (Strengths Perspective in Social Work Practice)
Doãn Thị
Ngọc- GV Trường
Đại
học
Hoa Sen
TÓM TẮT
Quan
điểm thế
mạnh là triết lý trọng tâm của ngành công tác xã hội
(CTXH). Chuyên viên xã hội cần nắm vững các khái niệm, các
nguyên tắc và
năm loại câu
hỏi của quan
điểm thế mạnh để thực hành
đánh giá toàn diện những điểm
mạnh, điểm có sẵn của thân chủ hay trong hệ thống hỗ trợ chính
quy và phi chính quy của thân chủ. Những điểm
mạnh có thể gồm: nghị lực, ý chí, tính vượt
khó, tính kiên cường, cảm xúc tích cực,
kinh nghiệm,
nhận thức, kỹ năng,
tài lẻ, cộng đồng gắn kết, có
bạn bè
giúp đỡ, có tổ chức cung
cấp các
dịch vụ và những yếu tố thuận lợi khác
nhằm tạo động lực,
tăng niềm tin,
hi vọng,
tăng quyền lực,
tăng năng lực
cho thân chủ
trong quá trình can thiệp.
Từ
khóa: quan điểm, quan điểm
thế mạnh, điểm
mạnh,
tiềm năng, khả
năng, chuyên viên xã hội/nhân viên xã hội,
thân chủ, công tác xã hội
(CTXH).
THE
STRENGTHS PERSPECTIVE IN SOCIAL WORK PRACTICE
ABSTRACT:
The “strengths perspective” is one of the core philosophy of social work.
Social workers are required to understand the key concepts, primary principles,
and five types of questions of the strengths perspective in order to put them
into daily practice. To enhance effective intervention, practitioners can
assess clients’ needs, strengths and available resources of their formal and
informal support systems. Strengths of clients may include their resilience,
will, persistence, positive emotions, experiences, self-awareness, skills,
talent, knowledge, hope to make change, bonding and helpful community, friends
in need. During the change process, social workers help clients to identify their
positive aspects to create momentum, trust, hope, empowerment and capacities
for them.
Keywords:
perspective, strengths perspective, strength or positive aspects, potential,
ability, social worker, client, social work.
1. Đặt vấn
đề
CTXH
là một nghề giúp
đỡ
chuyên nghiệp,
một
ngành khoa học
ứng dụng dựa vào
quyền con
người
và nền tảng của giáo
dục khai
phóng. Một
trong những
quan điểm trọng tâm
của
ngành CTXH là quan điểm thế mạnh và quan điểm này
được
kết hợp với các
quan điểm và
các lý thuyết
CTXH như:
khung khái niệm Con
người
trong môi trường
(Person in Environment), lý thuyết Hệ sinh thái (Ecosystem theory), lý thuyết Hệ thống
(System theory), lý thuyết về hành vi con người
và bộ quy tắc đạo đức CTXH
nhằm hướng
dẫn tiến
trình can thiệp
trong thực hành
CTXH hàng ngày. Nội dung của bài viết này sẽ tập trung vào thảo luận quan
điểm thế mạnh của học giả
Saleebey gồm:
khái niệm về quan
điểm,
khái niệm về quan
điểm thế mạnh, bảy
nguyên tắc của quan
điểm thế mạnh, và
năm loại câu
hỏi thực hành
để đánh
giá điểm mạnh của thân
chủ trong
ngành CTXH (de Shazer, Berg, Lipchik, Nunnally, Molnar, Gingerich &
Weiner-Davis, 1986; Hare, 2004; Kirst-Ashman & Hull, 2012; Nilsen, 2015;
Martin, 2014; Pincus & Minahan, 1973; Weick, 1981; Westbrook, Kennerley,
& Kirk, 2011).
2. Nội dung
Khái
niệm về quan
điểm và
quan điểm thế mạnh Trước
hết, bài
viết giải
thích khái niệm
về quan
điểm
(perspective) trong ngành CTXH. Theo Hutchison (2008) và Saleebey (1992a), khái
niệm
“quan điểm là một cách
tư duy,
một góc
nhìn, hay một
cách nhận thức về các yếu tố kinh
nghiệm cá
nhân và xã hội
bắt nguồn từ một vị trí
có giá trị”.
Hay nói cách khác, quan điểm cung cấp cho chúng ta một góc
nhìn hay một
lăng kính về
nhân sinh quan thế giới quan.
Kế đến,
Salleebey (1992d) định nghĩa quan điểm thế mạnh là
“Mỗi cá
nhân trong xã hội đều có nhiều điểm mạnh, điểm tốt, khả năng và tiềm năng
để tự giải quyết hay
thay đổi hành
vi của
mình”. Trước
những năm
1980, ngành CTXH, cũng như các ngành giúp đỡ khác,
thường
có khuynh hướng
tập
trung vào xác định vấn đề để giúp đỡ thân chủ. Đơn cử như ngành y thường hỏi người bệnh về vấn đề sức khỏe và làm các xét nghiệm để chẩn đoán
bệnh. Điều này
rất phù
hợp với
ngành y. Các nghiên cứu cũng cho thấy mô
hình thực hành
tập
trung vào vấn
đề cũng
phổ biến
trong ngành CTXH vì hàng ngày thân chủ và chúng ta đều phải đối mặt với rất nhiều vấn đề trong
cuộc sống (de
Shazer et al., 1986; Hare, 2004; Saleeybee, 2005, 1996, 1992a).
Chính
vì vậy, trước
những năm
1980, những ý tưởng,
lý thuyết, những
quan điểm, những mô
hình thực hành
của
ngành CTXH đều
phát triển xung
quanh việc nhận diện vấn đề. Ví dụ: Người
ta thường
nói hay dán nhãn hay đổ lỗi cho cá nhân có vấn đề như: “người
điên” hay “người
tâm thần” hay
“người
bệnh”
hay “người
tàn tật”.
Cách nhìn đầy
vấn đề này
làm cho thân chủ cũng tự gán nhãn mình là người
bệnh, người
khuyết tật, người
điên nên họ
có lối suy
nghĩ vấn đề khó
thay đổi được,
có tư tưởng
ỷ lại, sống dựa vào
gia đình và cộng
đồng. Điều này
không chỉ tác động tới tư duy,
suy nghĩ của thân
chủ, mà
còn ảnh hưởng
tới tư duy,
suy nghĩ của các
chuyên gia và cộng đồng về thân chủ. Trên thực tế, khi chúng ta bị chìm
ngập,
chìm đắm
trong vấn đề thì
hành xử, suy
nghĩ của
chúng ta về
thân chủ cũng
đầy vấn đề. Các
yếu tố khác
liên quan tới
thân chủ gồm:
tính cách, cảm
xúc, nhân phẩm,
kiến thức, ước
mong, nhu cầu,
tiếng
nói, hành động
cũng được
chúng ta có thể
gán ngấm ngầm là
“điên”, “bệnh”,
“nghiện”, “yếu
kém”, “bất thường”,
“lười
biếng” và
thậm chí
cho rằng
“giang sơn dễ đổi bản tính
khó dời”,
hay “chứng nào
tật ấy”.
Cách nhìn đầy
vấn đề, đầy bi
quan, gán nhãn này sẽ làm cho thân chủ và những người
xung quanh nghĩ rằng thân chủ không
tự quyết định cuộc đời
mình, không tự
làm chủ mình,
không tự chăm
sóc cho chính họ, họ trở nên vô dụng, là gánh nặng,
đáng sợ và thậm chí
có thể là mối nguy
hiểm cho
cộng đồng (De
Jong & Miller, 1995; Saleeybee, 1992a,b,c,d, 1996, 2005).
Qua thực hành
trong thực tế, các
chuyên gia CTXH đã thấy cách tiếp cận này không hiệu quả và
trong quá trình can thiệp họ phát hiện ra rằng thân chủ thường
gặp phải nhiều vấn đề
nghiêm trọng,
nhưng không phải lúc
nào vấn đề trong
câu chuyện của họ cũng
bi đát, trầm
trọng như họ nghĩ
(de Shazer et al., 1986; Hare, 2004). Chuyên viên xã hội giỏi biết cách
khai thác và tìm ra được những điểm mạnh của thân chủ qua ngôn ngữ tôn
trọng,
thái độ hiếu kỳ,
không định kiến,
không gán nhãn. Chuyên viên CTXH tự thay đổi mình trước bằng việc nhìn nhận “thân chủ bị mắc chứng
điên” chứ không
phải “người
điên” hay thân chủ là “người phải sống với bệnh tâm thần” chứ không phải “người tâm thần”. Cách nhìn mới này
không chỉ truyền cảm hứng, niềm tin,
hi vọng
trong từng
giây phút tương
tác với thân
chủ, mà
chuyên viên xã hội còn giúp thân chủ nhìn
thấy những điểm mạnh,
tính kiên cường
trong chính con người họ, giúp họ tin rằng gia đình và cộng đồng, xã
hội luôn
có nguồn lực để giúp
họ trở về cuộc sống
bình thường
thì đó được
gọi là
quan điểm thế mạnh
trong ngành CTXH (de Shazer et al., 1986; Saleebey, 1992a,b,c,d).
Nhưng từ những năm
1980 trở lại đây
quan điểm thế mạnh rất phổ biến
không chỉ trong
trong thực hành
CTXH, mà còn lan tỏa ra các ngành giúp đỡ khác,
ngành kinh tế,
chính trị, và
văn hóa trên toàn cầu. Mọi người mọi quốc gia luôn tìm kiếm những giải pháp
mới, giải pháp
thay thế
(alternative) để giải quyết các vấn đề ở cấp độ cá nhân, gia đình, tổ chức, cộng đồng và
trên toàn thế
giới. Để giúp
thân chủ tự thay
đổi
trong tiến
trình can thiệp,
chuyên gia CTXH cần lắng nghe hiệu quả, khai
thác một cách
hiệu quả những lúc
ngoại lệ, những
giây phút tốt
đẹp nhỏ nhoi,
hi vọng
mong manh, ngắn
ngủi bị vùi lấp, che
chặn
trong cuộc đời thân
chủ.
Chuyên viên xã hội giúp họ khơi gợi, khuếch đại những điểm có sẵn trong thân chủ để họ nhận ra rằng họ đã từng tự biết cách
giúp mình và tự
xử lý vấn đề khi
không có ai giúp đỡ. Khi lắng nghe hay đánh giá nhu cầu,
chuyên viên xã hội không chỉ thu
thập
thông tin về
mối quan
tâm, lo lắng,
hoàn cảnh
thăng trầm của thân
chủ, mà
còn cần tập
trung tìm hiểu,
khám phá những
điều họ đã
làm được
trong quá khứ,
khả năng
tự vượt
qua khó khăn, nghịch cảnh trước khi thân chủ gặp
chúng ta (De Jong & Miller, 1995; Saleebey, 1992a,b,c,d, 1996, 2005).
Nhân
viên CTXH khi giúp thân chủ cần tập trung vào cái gì có thể, hơn là cái gì không thể làm.
Điều này
có nghĩa khi làm việc với thân chủ, nhân viên xã hội rất cần tập
trung vào nhận
diện các
vấn đề gốc rễ, nhưng không nên chìm đắm, quá lún sâu hay quá tập
trung vào vấn
đề, vào
những
thách thức, vào
những lỗi lầm, vào
những khiếm khuyết, vào
những yếu kém,
vào những bệnh tật, hay
vào sự bất lực của thân
chủ. Điều quan
trọng,
chuyên viên xã hội cần xem xét, đánh giá nhu cầu và
đánh giá điểm
mạnh của thân
chủ dù rất nhỏ nhoi
như: khả năng,
tài năng, tài lẻ, uy tín, kiến thức, tài
chính, các nguồn
lực có sẵn của cá
nhân, gia đình, nhóm, tổ chức, cộng đồng để tăng năng lực,
tăng quyền lực,
giúp họ tự ý thức, tự quyết, và
tự tìm
các giải pháp
phù hợp để giải quyết vấn đề theo
một cách
tiếp cận toàn
diện và
đa chiều (de
Shazer et al., 1986; Hare, 2004; Nguyễn Thị Oanh, 1998, 2012; Rapp & Goscha,
2012; Saleebey, 1992a,b,c,d; Sullivan & Rapp, 1994; Sharry, J., 2004).
Góc
nhìn của ngành CTXH cho rằng “vấn
đề
là vấn đề”
và “con người không phải
là vấn đề”
là một
trong những
lăng kính rất
quan trọng để hiểu và
thực hành
quan điểm thế mạnh. Tách
vấn
đề
ra khỏi con người thân chủ sẽ giúp họ tự nhận trách nhiệm để giải quyết vấn đề và việc “gán
nhãn” hay “đổ
lỗi” cho
cá nhân sẽ
được
hạn chế. Một vấn đề xảy ra
thường
bị tác động bởi nhiều yếu tố như: niềm tin,
giá trị, thái
độ, văn
hóa, kinh tế,
chính trị, bạn bè,
gia đình, cộng
đồng, tổ chức, bối cảnh xã
hội. Những yếu tố này
thường
đan xen nhau, liên kết chặt chẽ với nhau. Vì vậy, khi
vấn đề xảy ra với cá
nhân, gia đình và các hệ thống xung quanh cần chủ động
tham gia và hợp
lực cùng
giải quyết thì
mới đạt kết quả mong
đợi. Vừa rồi
chúng ta đã tìm hiểu những khái niệm, từ ngữ của quan
điểm thế mạnh và
sau đây là những
nguyên tắc xuất phát
từ tư duy này (de
Shazer et al., 1986; Lê Chí An, 2012; Nguyễn Thị Oanh,
1998, 2012; Rapp & Goscha, 2012; Sullivan & Rapp, 1994; Sharry, J.,
2004).
Tiếp theo, giải
thích bảy nguyên tắc
của
quan điểm thế
mạnh
Kế đến, bài
viết
trình bày về
bảy
nguyên tắc nền tảng của quan
điểm thế mạnh. Bảy
nguyên tắc này
giúp nhân viên xã hội đánh giá những điểm mạnh của thân
chủ và
giúp họ nhìn
ra rõ ràng vấn
đề gốc rễ, tiến tới tìm
kiếm, xây
dựng giải pháp
thay thế để giải quyết vấn đề. Các
nguyên tắc bao
gồm các
giả định
mang tính hướng
dẫn
trong thực hành
CTXH. Những
nguyên tắc dưới
đây chỉ là những gợi ý, hướng
dẫn tạm thời, và
có thể không
phù hợp với tất cả các
hoạt động thực hành
hay bối cảnh thực hành
cụ thể. Những
chuyên gia CTXH cần biết rõ bối cảnh thực hành để có thể tự điều chỉnh, tự xây dựng và phát triển thêm
các giả định mới.
Nguyên
tắc
thứ 1:
mỗi cá
nhân, mỗi
nhóm, mỗi gia
đình, mỗi tổ chức, mỗi cộng đồng đều có
nhiều tiềm
năng, điểm mạnh, điểm tốt và nguồn lực có sẵn như: con
người,
tinh thần kiên
cường,
gắn kết, uy
tín, kiến thức, đất đai,
kinh nghiệm,
sự chân
tình, thời
gian, lòng nhân đạo để giải quyết vấn đề. Mỗi cá nhân đều có
khả năng
phát triển,
thay đổi, thậm chí
thay đổi rất
nhanh và triệt
để (Nguyễn Thị Oanh,
1998, 2012; Rapp & Goscha, 2006; Saleebey, 1992a,b,c,d; Sullivan &
Rapp, 1994; Sharry, J, 2004).
Nguyên
tắc
thứ 2:
Khi giúp đỡ,
nhân viên xã hội
cần tập
trung vào những
nhu cầu,
nguyện vọng,
mong muốn hợp
lý... của thân
chủ,
không “gán nhãn”. Thay đổi của thân chủ chỉ có thể xảy ra khi nhân viên xã hội kết hợp với những
mong đợi, ước
muốn, nhận thức, sức mạnh, ý
chí, niềm tin
của họ. Nhân
viên xã hội
cần tin
tưởng
rằng mọi người
đều có
thể thay
đổi nếu họ được
tạo cơ hội, có
đủ điều kiện và
nguồn lực và
khi chúng ta thực sự tin vào họ. Sống
trên đời, ai
cũng gặp những lúc
thăng trầm, đau
khổ, suy
sụp, buồn
chán, khó khăn, thất bại, sai lầm. Những điều này là vừa là
thách thức vừa là cơ hội, vừa là một phần tất yếu
trong cuộc sống và
giúp mỗi cá
nhân trưởng
thành, phát triển, có thêm động lực, để tiếp tục thay
đổi và
tiến về phía
trước
(Lê Chí An, 2012; Nguyễn Thị Oanh, 1998, 2012; Rapp & Goscha,
2012; Saleebey, 1992a,b,c,d; Sullivan & Rapp, 1994; Sharry, J., 2004).
Nguyên
tắc
thứ 3:
để giúp
thân chủ, nhân
viên xã hội
cần dựa vào
sự hợp tác
và tham gia chủ
động của cá
nhân, gia đình, cộng đồng địa phương của cá nhân đó vì nơi đây
có nhiều tiềm năng
và có khả năng
cung cấp nguồn lực có sẵn và hỗ trợ cho
thân chủ (Nguyễn Thị Oanh,
1998, 2012; Rapp & Goscha, 2012; Saleebey, 1992a,b,c,d; Sullivan &
Rapp, 1994; Sharry, J., 2004).
Nguyên
tắc
thứ 4:
để giúp
thân chủ, nhân
viên xã hội
cần biết rằng các
cá nhân sẽ
tự tin hơn và thoải mái
hơn khi
tiến về phía
trước,
nếu nhân
viên xã hội
khởi đầu từ xuất phát
điểm của
chính họ, hướng
dẫn, mời gọi họ tham
gia chủ động từ những gì
họ đã có
hay đã biết
(Rapp & Goscha, 2012; Sullivan & Rapp, 1994; Sharry, J., 2004). Nhân
viên xã hội
nên dùng ngôn ngữ phù hợp với nhận thức của thân chủ, phù hợp với văn hóa, tập quán
của họ. Khi
nói, nhân viên xã hội nên nhấn mạnh những khả năng, tài năng, tài lẻ độc đáo
của họ.
Nguyên
tắc
thứ 5:
tiến
trình giúp đỡ
cần dựa vào
sự tự quyết của thân
chủ.
Nguyên
tắc
thứ 6:
khi hỗ trợ, nhân
viên xã hội
cần phải cam
kết tạo động lực,
tăng quyền lực,
tăng năng lực
cho thân chủ
(Lê Chí An, 2012; Nguyễn Thị Oanh, 1998, 2012; Rapp & Goscha,
2012; Saleebey, 1992a,b,c,d; Sullivan & Rapp, 1994; Sharry, J., 2004).
Nguyên
tắc
thứ 7:
khi can thiệp,
nhân viên xã hội
cần nhìn
nhận và
xem xét “vấn
đề là vấn đề”, chứ con
người
không phải là vấn đề. Con
người
thường
cố gắng làm
những gì
tốt nhất
trong khả năng
có thể. Con
người
thường
mong muốn điều tốt đẹp xảy ra
cho họ, cho
gia đình họ
và cộng đồng họ. Con
người
luôn có khả
năng thay đổi,
đặc biệt thay
đổi từ bên
trong (Rapp & Goscha, 2012; Sharry, 2004).
3. Kết luận
Nội dung
chính của bài
viết tập
trung vào thảo
luận về kiến thức quan
điểm thế mạnh của
Saleebey. Quan điểm là một cách tư duy, một góc nhìn, hay một cách
nhận thức về xã hội bắt nguồn từ một vị trí
có giá trị.
Quan điểm thế mạnh là
nhân viên xã hội
khi làm việc
và giúp đỡ
thân chủ cần tin
rằng mỗi cá
nhân đều có
điểm mạnh, điểm tốt, điểm tích
cực, tài
năng, tiềm
năng, khả năng,
kinh nghiệm
có sẵn
trong họ và
trong cộng đồng của họ. Bài
viết cũng
trình bày và giải thích bảy nguyên tắc hướng
dẫn thực hành
và năm loại
câu hỏi tập
trung khai thác những điểm mạnh của thân chủ trong tiến trình can thiệp ở cấp độ thực hành
vi mô, trung mô và vĩ mô. Cuối cùng, quan điểm thế mạnh là
triết lý cốt lõi,
trọng tâm
của
ngành CTXH. Quan điểm thế mạnh trong thực hành
thường
được
kết hợp với quan
điểm Con
người
trong môi trường
(PIE), quan điểm
sinh thái và quan điểm hệ thống.
Từ kiến thức này,
nhân viên xã hội
sẽ bắt đầu thực hành
đánh giá điểm
mạnh của cá
nhân, gia đình, nhóm, tố chức, và cộng đồng. Khi sử dụng các quan điểm mạnh, điều quan
trọng là
nhân viên xã hội
cần đánh
giá toàn diện
nhận thức, cảm xúc,
sức khỏe, kỹ năng
và kinh nghiệm
cuộc sống của thân
chủ. Nhân
viên xã hội
cần dùng
lời nói
không gán nhãn, tích cực để truyền cảm hứng, niềm tin cho thân chủ. Nhân
viên xã hội
cần tập
trung vào những
hy vọng, ước
mơ, hoài bão của thân
chủ và
xây dựng dựa trên
khả năng
vốn có của thân
chủ. Quan
điểm thế mạnh
cũng thể hiện sứ mệnh, mục
tiêu, nguyên tắc,
giá trị cốt lõi
của
ngành CTXH là nhân viên xã hội cần phải tôn trọng nhân phẩm và
giá trị của thân
chủ, tôn
trọng sự tự quyết và tập
trung vào tạo
động lực,
tăng quyền lực,
năng lực cho
thân chủ.
Tài liệu tham
khảo
Đỗ Trường.
(17/06/2017). Cô nữ sinh giỏi mồ côi vươn lên nghịch cảnh. Báo Thanh niên. Truy cập ngày
14 tháng 9 năm 2018, từ
https://thanhnien.vn/gioi-tre/co-nu-sinh
gioi-mo-coi-vuon-len-nghich-canh-846166.html
Lê Chí
An. (2012). Công tác xã hội Nhập môn. NXB Đại học Mở TP.
HCM.
Nguyễn Công
Hùng. (02/01/2013). Cuộc đời “Hiệp sĩ” Nguyễn Công
Hùng. Vnexpress. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2018, từ
http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/hiep-si
nguyen-cong-hung-qua-doi-2408590-p3.html
Như Lịch.
(2017, tháng 11, 23). Cô gái vượt lên nghịch cảnh để thành công. Báo Thanh niên. Truy cập ngày
14 tháng 9 năm 2018, từ
https://thanhnien.vn/gioi-tre/co-gai-vuot
len-nghich-canh-de-thanh-cong-902993.html
Nguyễn Thị Oanh.
(1998). Công tác xã hội đại cương. NXB Giáo dục.
Nguyễn Thị Oanh.
(2012). Công tác xã hội: Một ngành khoa học, Một nghề
chuyên môn. NXB Thanh niên.
De
Jong, P. & Miller, S. (1995). How to interview for client strengths. Social
Work Journal, 40 (6), 729-736.
De
Shazer, S., Berg, I. K., Lipchik, E., Nunnally, E., Molnar, A., Gingerich, W.
J., & Weiner-Davis, M. (1986). Brief Therapy: Focused Solution Development.
Family Process, 25(2), 207-221.
Hare,
I. (2004). Defining social work for the 21st century. The International
Federation of Social Workers’ revised definition of social work. International
Social Work, 47, 407-424.
Hutchison,
D. Elizabeth. (2008). Dimensions of human behavior: Person and environment (3rd
ed.). Los Angeles, CA: Sage Publications. Hutchinson, G. S. &
Oltedal,
S. (2014). Five theories in social work. Kirst-Ashman, K. K. & Hull, G. H.
(2012). Understanding generalist practice. Belmont, CA: Brooks/Cole, Cengage
Learning.
Martin,
E. (2014). Introduction to Social Work: Through the Eyes of Practice Settings.
Pearson.
Nilsen,
P. (2015). Making sense of implementation theories, models and 10(1), 53.
frameworks. Implementation Science,
Pincus,
A. & Minahan, A. (1973). Social work practice: Model method. Itasca:
Peacock. Poulin, J. (2005). Strengths-based generalist practice: A
collaborative approach (2nd ed.). Belmont, CA: Brooks/Cole – Thomson Learning.
Rapp,
C. & Goscha, R. (2012). The strength model: A recovery-oriented approach to
mental health services (3rd ed.). New York: Oxford University Press.
Saleebey,
D. (1992a). Conclusion: Possibilities and Problems with the Strength
Perspective. In Saleebey, D. (Ed.), The strengths perspective in social work
practice. New York: Longman.
Saleebey,
D. (1992b). Introduction: Beginnings of a Strengths Approach to Practice. In
Saleebey, D. (Ed.), The strengths perspective in social work practice. New
York: Longman.
Saleebey,
D. (1992c). Introduction: Power in the People. In Saleebey, D. (Ed.), The
strengths perspective in social work practice. New York: Longman.
Saleebey,
D. (1992d). The strengths perspective in social work practice. New York:
Longman. Saleebey, D. (1996). The strengths perspective in social work
practice: Extensions and cautions. Social work, 41(3), 296-305.
Saleebey,
D. (2005). The strengths perspective in social work practice (4th ed.). Boston:
Allyn & Bacon. Sharry, J. (2004). Counseling children, adolescents and
families: A strength-based approach. London: Sage Publications.
Sullivan,
W. P. & Rapp, C. (1994). Breaking away: The potential and promise of a
strengths-based approach to social work practice. In Meinert, J Pardeck, &
W Sullivan, W. (Eds.), Issues in social work. Westport, CT, USA: Auburn House.
Weick,
A. (1981). Reframing the person-in-environment perspective. Social Work,
26(2),140-145.
Weick,
A. (1992). Building a Strengths Perspective for Social Work. In Saleebey, D.
(Ed.), The strengths perspective in social work practice. New York: Longman.
Westbrook,
D’, Kennerley, H., & Kirk, J. (2011). An introduction to cognitive
behaviour therapy. Los Angeles: SAGE.
Zastrow,
C. (2004). Introduction to social work and social welfare: Empowering people
(8th ed.). Belmont, CA: Thomson Brooks/Cole.
Không có nhận xét nào: