Các vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ và bình đẳng giới trong bối cảnh hiện nay – Thách thức và giải pháp

 Sự ra đời của Luật Bình đẳng giới 2006 và Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới các giai đoạn 2011-2020 và 2021-2030 đã thể hiện đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước ta đối với công tác phụ nữ và bình đẳng giới, qua đó đã phát huy cao độ vai trò và tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.

 Ảnh sưu tầm

Đặt vấn đề

Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất Mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, trong đó có các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái (UNDP, 2022). Bên cạnh những thành tích đạt được, công tác phụ nữ và bình đẳng giới còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong bối cảnh phát triển của Việt Nam hiện nay, các xu hướng lớn như hội nhập quốc tế, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, vấn đề già hoá dân số, xung đột quân sự, chính trị trên bình diện quốc tế và các thách thức an ninh phi truyền thống đã và đang xuất hiện các vấn đề xã hội mới tác động không cân xứng lên cả phụ nữ và trẻ em gái và có nguy cơ làm trầm trọng thêm các vấn đề giới đang tồn tại. Các hạn chế và thách thức này đặt ra yêu cầu cần một hệ thống chính sách xã hội bao trùm và đáp ứng giới để giải quyết tốt các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo an sinh xã hội toàn dân, hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội.

I. Thành tựu và tồn tại về bình đẳng giới trong lĩnh vực xã hội

1.1. Thành tựu

Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam được thế giới công nhận đã có nhiều thành tựu đáng kể trong thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF, 2023)[1], chỉ số khoảng cách giới năm 2022 của Việt Nam đạt 0,705, xếp thứ 83 trong số 146 quốc gia tham gia xếp hạng, tăng 4 bậc so với năm 2021. Theo Chương trình triển Liên hợp quốc (UNDP, 2023)[2], chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,703 năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu và lên vị trí 115/191 quốc gia so với năm 2020, xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á; chỉ số bất bình đẳng giới (GII) của Việt Nam tiếp tục được cải thiện vào năm 2021, đạt 0,296, xếp hạng 71 trong số 170 quốc gia.

Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam là một trong các quốc gia Đông Nam Á có tốc độ khắc phục khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 30 năm trở lại đây. Quyền bình đẳng thực chất của phụ nữ nước ta ngày càng được bảo đảm hơnnhận thức xã hội về bình đẳng giới đã có sự cải thiện, từng bước khắc phục tệ phân biệt đối xử với phụ nữ từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội; tuổi thọ người dân tăng lên, việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngày càng được cải thiện (năm 2022, tỷ lệ phụ nữ Việt Nam được tiếp cận các dịch vụ y tế là hơn 90%; tuổi thọ bình quân của người Việt Nam là 73,6 tuổi, nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của nam là 63,2 tuổi và của nữ là 70,0 tuổi); tỷ lệ nhập học của trẻ em trai và trẻ em gái ở bậc tiểu học và trung học ngày càng tăng, hiện ở mức cao và cân đối (Bộ LĐ-TB&XH, 2023).

Bên cạnh đó, các thành tựu bình đẳng giới còn được thể hiện ở khía cạnh giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao (Bộ LĐ-TB&XH, 2023). Năm 2022, với tỷ lệ 50,4% dân số và 47,1% lực lượng lao động, phụ nữ Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế và vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Nhìn chung, phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế và có nhiều cơ hội để có việc làm tốt, mang lại thu nhập cao hơn. Điều này góp phần quan trọng giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới trong thập kỷ qua, bất chấp những biến động kinh tế - chính trị của khu vực và thế giới.

1.2. Hạn chế và các vấn đề giới

Bên cạnh những thành tích đạt được, công tác phụ nữ và bình đẳng giới còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Một số quy định của pháp luật, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với phụ nữ và đảm bảo bình đẳng giới chưa được thực hiện nghiêm túc; còn tình trạng định kiến, phân biệt đối xử với phụ nữ nhất là ở khu vực nông thôn; bạo lực gia đình, tệ ngược đãi phụ nữ, mại dâm, buôn bán phụ nữ trẻ em, bệnh dịch HIV/AIDS, tệ nạn xã hội,… vẫn còn diễn biến phức tạp; phụ nữ và trẻ em gái vẫn là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trước các nguy cơ cũng như cần có thêm nhiều hơn nữa các cơ hội bình đẳng. Trong khi đó, nguồn tài chính cho thực hiện chính sách xã hội, nhất là an sinh xã hội chưa bảo đảm đáp ứng về giới, chưa có nguồn lực phân bổ cho việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng, thực hiện các chính sách, chương trình về an sinh xã hội. Đến nay, còn tồn tại nhiều vấn đề giới trong các lĩnh vực xã hội, cụ thể như sau:

a) Lĩnh vực lao động, việc làm

Bộ luật Lao động 2019 mặc dù đã mở rộng thêm đối tượng là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng (Khoản 1 Điều 13), lao động nữ làm việc ở khu vực phi chính thức chưa được thụ hưởng các chính sách đối với lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới, phòng chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; chính sách chăm sóc bà mẹ và trẻ em. Hệ thống chính sách hỗ trợ lao động di chuyển đến các khu công nghiệp, khu đô thị còn thiếu; đa số người lao động nhập cư chưa được thụ hưởng các chính sách này. Luật Bình đẳng giới, Bộ luật Lao động và một số luật, chính sách trong lĩnh vực lao động - việc làm chưa đề cập đến một số nội dung, khái niệm như phân biệt đối xử gián tiếp; phân biệt đối xử đan xen; các hình thức phân biệt đối xử trên cơ sở giới trong lĩnh vực này.

Khoảng cách giới, vấn đề giới trong lĩnh vực lao động - việc làm mặc dù đã từng bước được cải thiện trong thực tế, tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (62,2% của nữ so với 74,2% của nam năm 2022) và chất lượng của LLLĐ nữ vẫn thấp hơn nam giới (năm 2022, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ của nữ đạt 23,9%, thấp hơn so với tỷ lệ tương ứng của nam là 28,7%); lực lượng lao động nữ là người dân tộc thiểu số (DTTS) đang chịu bất bình đẳng đan xen, là một trong những nhóm yếu thế nhất trong thị trường lao động; tỷ lệ lao động làm các công việc dễ bị tổn thương nhất như “lao động tự làm và lao động gia đình không hưởng lương” của nữ cao hơn nam (48,5% so với 40,4% năm 2022); tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức của nam cao hơn so với nữ (68,9% so với 62,3% năm 2022). Thu nhập của lao động nữ luôn thấp hơn lao động nam ở cả khu vực thành thị - nông thôn, trong các nhóm trình độ chuyên môn kỹ thuật và các nhóm nghề (năm 2022, thu nhập bình quân tháng của lao nữ làm công hưởng lương chỉ bằng 87,5% mức thu nhập tương ứng của lao động nam, 7,0 triệu đồng/tháng so với 8,0 triệu đồng/tháng).

b) Lĩnh vực giảm nghèo

Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 và các chính sách đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng nguyên tắc xuyên suốt là “ưu tiên phụ nữ”, chỉ coi phụ nữ là nhóm đối tượng yếu thế cần “ưu tiên hưởng lợi”; mà chưa bảo đảm cơ hội bình đẳng cho phụ nữ với vai trò “chủ thể” hoặc “thực hiện” các chính sách, chương trình giảm nghèo. Bên cạnh đó, nguyên tắc “ưu tiên phụ nữ” vẫn chưa được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn thực hiện, thiếu chỉ số và cơ chế giám sát để bảo đảm được thực thi trong thực tế. Định kiến giới về vị thế và vai trò của phụ nữ, cùng với gánh nặng công việc nội trợ và chăm sóc là yếu tố cản trở phụ nữ tham gia các hoạt động của các chính sách, chương trình giảm nghèo.[3]

Chính sách giảm nghèo chưa tính đến trẻ em nghèo. Những phương pháp và cơ chế để xác định đối tượng thụ hưởng chính sách chưa được đo lường một cách chính xác những thiếu hụt cụ thể của trẻ em, dẫn tới trẻ em không được hưởng các hỗ trợ theo nhu cầu.[4] Hầu hết chính sách giảm nghèo của Việt Nam đặt mục tiêu và có giải pháp hỗ trợ cho các hộ nghèo; trong khi Liên hợp quốc đang hướng tới giảm nghèo theo đầu người. Không có ngân sách phân bổ cho lồng ghép giới trong các chính sách và chương trình giảm nghèo.

c) Lĩnh vực bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp

Về bảo hiểm xã hội: Mức lương hưu thiết kế chưa hợp lý, nặng về nguyên tắc đóng - hưởng, chưa chú ý thỏa đáng nguyên tắc chia sẻ và thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa những người hưởng chế độ hưu trí. Do mức lương hưu của lao động nữ luôn thấp hơn lao động nam nên quy định nêu trên sẽ khiến cho khoảng cách về tiền lương hưu của nam và nữ sẽ tiếp tục gia tăng. Đáng lưu ý, trong những năm gần đây, số người hưởng bảo hiểm xã hội (BHXH) một lần có xu hướng tăng, trong đó số lượng lao động nữ nhiều hơn lao động nam; số người hưởng BHXH một lần sau 01 năm ngừng đóng BHXH phần lớn là lao động nữ trong độ tuổi còn trẻ; khả năng được hưởng lương hưu hàng tháng của lao động nữ thấp hơn lao động nam. Quy định về điều kiện hưởng BHXH một lần hiện tại khá dễ dàng, trong khi quy định điều kiện được hưởng lương hưu chặt chẽ có thể dẫn đến tình trạng một bộ phận lao động nữ quyết định hưởng BHXH một lần, ảnh hưởng đến quyền lợi an sinh xã hội khi nghỉ hưu.

Bên cạnh đó, hạn chế cơ bản của chế độ thai sản diện bao phủ thấp, chưa bảo đảm công bằng cho lao động nữ làm việc ở các khu vực kinh tế khác nhau. Chế độ thai sản chưa áp dụng cách tiếp cận xuyên suốt, hệ thống về chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con giữa nam và nữ. Mặc dù đã có sự gia tăng vai trò và nghĩa vụ của nam giới trong chế độ thai sản, nhưng nhìn chung chính sách hầu hết vẫn tập trung vào người mẹ, chưa thực sự khuyến khích bình đẳng trong phân chia trách nhiệm chăm sóc con cái giữa nam và nữ. Ngoài ra, quy định về thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động căn cứ vào thời gian đã đóng BHXH có thể gây bất lợi cho lao động nữ vì họ có thời gian làm việc hưởng lương ngắn hơn nam giới.

Về bảo hiểm thất nghiệp: Quy định về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đang bất lợi hơn cho các nhóm lao động nữ yếu thế nhất trong nhóm có quan hệ lao động, đồng thời chưa có chính sách BHTN tự nguyện cho lao động có việc làm phi chính thức và không có quan hệ lao động. Tỷ lệ lao động tham gia BHTN còn thấp và tăng chậm. Chính sách BHTN chưa thực sự gắn với thị trường lao động, còn nặng về giải quyết trợ cấp thất nghiệp, chưa chú ý thoả đáng đến các giải pháp phòng ngừa lao động mất việc; chưa có chính sách BHTN cho lao động có việc làm phi chính thức.

d) Lĩnh vực trợ giúp xã hội

Các chính sách về trợ giúp xã hội (TGXH) chưa quan tâm đầy đủ tới khía cạnh bình đẳng giới, chưa chú trọng tới vai trò của chính sách TGXH trong giải quyết các rủi ro về giới theo vòng đời. Mặc dù, Quyết định số 488/QĐ-TTg[5] và các nghị định hướng dẫn đã áp dụng cách tiếp cận theo vòng đời, tuy nhiên chưa có bằng chứng rõ ràng cho thấy các chính sách TGXH trong khuôn khổ Quyết định này đã tính đầy đủ đến các rủi ro và tính dễ tổn thương về giới theo vòng đời[6].

Hệ thống các Trung tâm công tác xã hội có chức năng cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực bình đẳng giới, tuy nhiên năng lực về tư vấn, cung cấp thông tin, hỗ trợ bình đẳng giới còn rất hạn chế; còn thiếu các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tư vấn, hỗ trợ về bình đẳng giới. Hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ TGXH chăm sóc, nuôi dưỡng bao gồm các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội, các hộ gia đình và cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng chưa có các quy trình nhằm giảm thiểu rủi ro xâm hại tình dục.

Hệ thống giám sát - đánh giá và báo cáo trong lĩnh vực TGXH cũng như hệ thống chỉ tiêu thống kê về TGXH chưa có các chỉ tiêu được phân tách theo giới tính đầy đủ; hầu như chưa có báo cáo về TGXH nào đề cập tới khía cạnh bình đẳng giới trong lĩnh vực này.

e) Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản

Bảo đảm giáo dục tối thiểuChất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn thấp. Tỷ lệ lao động qua đào tạo không đạt mục tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TW[7] đề ra. Trình độ học vấn của người dân tộc thiểu số (DTTS) vẫn còn khoảng cách đáng kể với người Kinh, Hoa; tỷ lệ trẻ em DTTS đi học thấp hơn mức bình quân cả nước ở mọi cấp học. Trẻ em mầm non là con công nhân làm việc ở khu vực có khu công nghiệp, khu chế xuất phần lớn là dân nhập cư, chưa được hưởng những chính sách hỗ trợ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tại cơ sở giáo dục mầm non. Quy định tuyển sinh vào các cơ sở giáo dục công lập theo khu vực cư trú (tuyển sinh theo tuyến) có thể ảnh hưởng đến việc tiếp cận hệ thống giáo dục công lập cho con em của lao động nữ di cư. Đào tạo nghề nghiệp cho các đối tượng yếu thế, người DTTS, phụ nữ chưa được quan tâm đúng mức và chưa đáp ứng giới. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 và giai đoạn 2021 - 2030 đều chưa đề cập đến vấn đề giới trong lĩnh vực phát triển khoa học - công nghệ.

Đảm bảo y tế tối thiểu: Một số quy định của pháp luật trong lĩnh vực y tế đang ảnh hưởng đến việc tiếp cận dịch vụ y tế của một số nhóm phụ nữ và trẻ em, như  quy định đăng ký cơ sở khám, chữa bệnh theo địa chỉ hộ khẩu thường trú (theo Khoản 3, Điều 22, Luật Bảo hiểm y tế). Điều khoản này sẽ tác động tiêu cực đối với những người di cư, trong đó có phụ nữ, trẻ em gái di cư do nếu họ bị bệnh mà đến khám ở các cơ sở khám, chữa bệnh không đăng ký trong thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) thì sẽ không được chi trả BHYT đầy đủ (UNFPA, 2020); Khả năng tiếp cận và chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ trước và sau sinh, chăm sóc sức khỏe sinh sản còn nhiều hạn chế, vẫn còn phụ nữ đẻ không có cán bộ y tế đỡ vẫn tồn tại ở một số khu vực như miền núi và vùng DTTS; BHYT vẫn còn đơn điệu, chưa có nhiều lựa chọn về các gói BHYT phù hợp với nhu cầu đa dạng của người dân. Thể chế, cơ chế chính sách về xã hội hoá trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập dẫn đến chưa phát huy sức mạnh của xã hội trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, trong đó lao động nữ di cư thường thiệt thòi hơn trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế; Thiếu thông tin, số liệu thống kê và bằng chứng có tính đến khác biệt giới trong một số lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đặc biệt là các phân tích chuyên sâu về nguyên nhân dẫn đến khác biệt về tình trạng sức khỏe, những nguy cơ rủi ro và những dạng tổn thương về sức khỏe nam và nữ (UNFPA, 2020).

Chương trình phát triển nhà ở xã hội mới đạt 41% so với mục tiêu đến năm 2020 của Nghị quyết số 15-NQ/TW do thiếu nguồn lực thực hiện và thiếu quỹ đất phát triển nhà ở xã hội. Hầu hết các dự án hỗ trợ nhà ở đều chậm tiến độ và nhiều dự án nhà ở xã hội chưa hướng đến đúng đối tượng. Chương trình hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng có mức vốn cho vay thấp, huy động và lồng ghép với các nguồn khác còn hạn chế. Lao động nữ di cư tới làm việc ở đô thị và các khu công nghiệp vẫn phải sống trong các khu nhà trọ không bảo đảm an ninh, an toàn.

Tỷ lệ người dân sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh và nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia tại một số vùng đang thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước, đặc biệt là những vùng có tỷ lệ hộ nghèo, vùng DTTS có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn tại miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ và Tây Nguyên. Vẫn còn tình trạng lao động di cư - trong đó có nhiều lao động nữ di cư sinh sống trong các khu nhà trọ không có nước sinh hoạt hợp vệ sinh, kể cả ở khu vực thành thị; phụ nữ DTTS sinh sống ở các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn vẫn khó khăn trong tìm kiếm các nguồn nước sạch hợp vệ sinh cho sinh hoạt. Sự tham gia của phụ nữ vào việc ra quyết định về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường vẫn còn thấp và các sáng kiến ​​về nước sạch hiếm khi xem xét sự khác biệt trong phân công lao động khác biệt theo giới trong các hộ gia đình.

Chính sách bảo đảm thông tin cho người nghèo, vùng nghèo mới có các chương trình ngắn hạn, nguồn lực còn hạn chế. Công tác thông tin, tuyên truyền còn chưa bài bản, thiếu chuyên nghiệp; các công cụ truyền thông còn đơn giản, chưa sinh động; nội dung truyền thông chưa được cụ thể hóa theo từng nhóm đối tượng, hạn chế tiếp cận với nhóm phụ nữ DTTS do rào cản về ngôn ngữ và chữ viết. Năng lực phát hiện và xử lý những vấn đề về bình đẳng giới đối với các cán bộ làm công tác truyền thông không đồng đều và còn hạn chế. Vẫn chưa có hướng dẫn để đánh giá về định kiến giới trong nội dung các sản phẩm truyền thông hoặc các quảng cáo qua truyền thông[8].

II. Quan điểm và giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực xã hội trong bối cảnh mới

2.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045

Trong giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2045, bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều xu hướng và đặc điểm mới, tạo ra cả cơ hội và thách thức đối với công tác phụ nữ và bình đẳng giới trong lĩnh vực xã hội tại Việt Nam.

Thứ nhất, sự phát triển kinh tế của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới vừa qua đã đưa Việt Nam từ nước nghèo trở thành nước có mức thu nhập trung bình thấp, với thu nhập bình quân theo đầu người đạt hơn 4.110 USD/năm (năm 2022). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đã xác định mục tiêu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2030 Việt Nam và trở thành nước phát triển, thu nhập cao đến năm 2045. Bối cảnh phát triển kinh tế mở ra cơ hội thuận lợi cho Việt Nam giải quyết tốt hơn cả về số lượng và chất lượng các mục tiêu xã hội, trong đó có mục tiêu bình đẳng giới. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập mở cửa cho phép Việt Nam tiếp nhận kinh nghiệm và thành tựu mới trong nội luật hóa các cam kết quốc tế về trao quyền cho phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới, cũng như lồng ghép giới trong xây dựng các chính sách và quản lý phát triển xã hội.

Thứ hai, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường đi liền với tái cấu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đô thị hóa, chiến lược tăng tốc tăng trưởng xanh,… sẽ có tác động tích cực trong dài hạn, song trong ngắn hạn sẽ có tác động bất lợi, ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, đặc biệt là phụ nữ, người nghèo và lao động kỹ năng thấp, chưa qua đào tạo… Đồng thời, đặt ra không ít vấn đề xã hội khác như nhà ở, ô nhiễm môi trường, quá tải hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, rủi ro và xung đột lao động, xung đột xã hội, mà trong đó phụ nữ nông thôn và phụ nữ di cư là những đối tượng có nguy cơ rủi ro cao. Cùng với đó, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng về mức sống và cơ hội phát triển vẫn có xu hướng gia tăng, nhất là gia tăng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, khả năng tiếp cận các cơ hội việc làm tốt, khả năng tiếp cận tài nguyên đất và về các thủ tục, tiếng nói và tầm ảnh hưởng, mà trong đó phụ nữ và trẻ em gái là yếu thế hơn cả. Điều này, đặt ra yêu cầu về một hệ thống chính sách xã hội bao trùm, có đáp ứng giới để giải quyết tốt các vấn đề xã hội hướng đến mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội.

Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với quản lý phát triển xã hội, trong đó có công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Những thành tựu khoa học công nghệ cho phép hiện đại hoá các công cụ quản lý, xây dựng cơ sở dữ liệu số…, song cũng có nguy cơ nảy sinh các vấn đề xã hội trong giao dịch, các tệ nạn, tội phạm gắn với công nghệ cao; kỷ nguyên số cũng làm gia tăng mất việc làm ở một số ngành, lĩnh vực thâm dụng lao động[9] (thường sử dụng đông lao động nữ), gia tăng khoảng cách giàu nghèo và khoảng cách giới. Do đó, các chính sách xã hội cần phải thay đổi để thích ứng với các điều kiện mới trong kỷ nguyên số và đồng thời đòi hỏi phải tăng cường các biện pháp đảm bảo bình đẳng giới trong quản lý phát triển xã hội.

Thứ tư, chuyển đổi nhân khẩu học theo hướng già hoá dân số nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống ASXH (bảo hiểm hưu trí, chăm sóc y tế, TGXH), hệ thống chăm sóc xã hội và tác động đến tăng trưởng kinh tế do suy giảm lực lượng lao động và năng suất lao động, áp lực giải quyết việc làm thỏa đáng cho người cao tuổi có nhu cầu đang tăng nhanh. Đặc biệt, trong nhóm dân số cao tuổi, có sự khác biệt rõ rệt theo giới tính, tỷ lệ nữ cao hơn nam, tỷ lệ nữ sống ở nông thôn cao hơn nam và tỷ lệ nữ có việc làm thấp hơn nam; tỷ lệ nữ có lương hưu thấp hơn so với tỷ lệ tương ứng của nam; … đặt ra yêu cầu về một hệ thống an sinh xã hội có đáp ứng giới, thích ứng với già hoá dân số nhanh.

Thứ năm, xung đột quân sự, chính trị trên bình diện quốc tế và các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia,v.v… đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của người dân Việt Nam, cũng sẽ là nguyên nhân gia tăng xung đột xã hội, thúc đẩy biến đổi xã hội theo chiều hướng tiêu cực, gia tăng nhiều vấn đề xã hội... khiến tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng, bất bình đẳng giới có nguy cơ gia tăng.

Thứ sáu, phát triển bền vững, bao trùm trở thành xu thế của thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc có ảnh hưởng lớn đến phương thức tăng trưởng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư trên thế giới. Trong đó bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng, công bằng xã hội, bình đẳng giới đã trở thành xu thế chung của toàn thế giới với quan điểm lấy con người làm trung tâm. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, cần thiết phải mở rộng độ bao phủ của an sinh xã hội đến mọi nhóm dân cư, đặc biệt là người nghèo, người dễ bị tổn thương, nhất là các nhóm đang chịu bất bình đẳng đan xen như phụ nữ và trẻ em gái nghèo, dân tộc thiểu số, di cư.

2.2. Quan điểm về lồng ghép giới trong lĩnh vực xã hội

Thứ nhất, xây dựng và thực hiện chính sách xã hội bao trùm, toàn diện, bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bình đẳng giới/ bao trùm giới dựa trên quyền con người, hướng tới con người và vì con người; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân.

Thứ hai, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo đảm bình đẳng giới trong từng bước phát triển; chính sách xã hội phải đặt ngang tầm với chính sách kinh tế. Bảo đảm cung cấp đầy đủ, có chất lượng, cơ hội tiếp cận công bằng, bình đẳng về dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu cho các tầng lớp dân cư, nhóm xã hội.

Thứ ba, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, toàn diện, phổ cập, hiện đại và đáp ứng giới, nhằm hỗ trợ mọi người dân ứng phó kịp thời, thích ứng linh hoạt và hiệu quả trước các rủi ro kinh tế - xã hội và môi trường. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập; tập trung đầu tư phát triển con người, phổ cập nghề cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; thu hẹp khoảng cách giới trong thị trường lao động. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ở cả khu vực chính thức và phi chính thức; từng bước thu hẹp việc làm phi chính thức. Thu hẹp khoảng cách giới giữa các vùng miền, khu vực, đặc biệt là hướng đến một số nhóm đối tượng yếu thế đan xen như: phụ nữ và trẻ em người DTTS, phụ nữ khuyết tật, lao động nữ di cư.

Thứ tư, thực hiện chính sách xã hội chăm lo cho mọi người dân là nhiệm vụ chiến lược, là trách nhiệm thường xuyên của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách xã hội và lồng ghép giới trong chính sách xã hội tương xứng khả năng, điều kiện phát triển kinh tế; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động sự tham gia của cộng đồng xã hội, doanh nghiệp và người dân. Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy cá nhân, gia đình và cộng đồng làm nền tảng để giải quyết và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bao gồm bất bình đẳng giới trên cơ sở luật pháp

2.3. Giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong các lĩnh vực xã hội

Luật Bình đẳng giới và Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030 đã đề ra các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Để thực hiện thành công các mục tiêu này, cần chú trọng thực hiện lồng ghép giới trong hệ thống chính sách xã hội với một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, trong lĩnh vực lao động, việc làm: Đảm bảo người lao động có việc làm bền vững, phù hợp và có thu nhập bảo đảm tái sản xuất sức lao động và nuôi sống gia đình. Phát triển thị trường lao động (TTLĐ) linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Tăng cường chính sách, chương trình hỗ trợ tạo việc làm cho lao động nữ, cho người nghèo, lao động là người DTTS, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng do thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu và các nhóm đối tượng yếu thế, lao động có hoàn cảnh khó khăn khác. Hiện đại hoá kết nối cung - cầu lao động, dự báo TTLĐ và quản lý nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở dữ liệu lao động, việc làm có phân tách theo giới tính. Đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, đặc biệt trong các lĩnh vực có nguy cơ cao, khu vực nông nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề; trong các nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con của người lao động. Phấn đấu duy trì tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3%; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%.

Phát triển giáo dục nghề nghiệp (GDNN) theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, hội nhập; đảm bảo người lao động có đủ kiến thức, kỹ năng, tay nghề phù hợp với yêu cầu của TTLĐ và cạnh tranh khu vực, quốc tế; coi GDNN là biện pháp căn bản thực hiện đột phá phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và thu hẹp khoảng cách giới trong nhân lực chất lượng cao. Tạo môi trường học tập suốt đời cho người lao động; phát triển cơ sở GDNN chất lượng cao; hiện đại hóa và đổi mới phương thức đào tạo trong nền kinh tế và xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 40%; đến năm 2045, bảo đảm tất cả lao động đang có việc làm đều được trang bị kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp phù hợp. Thúc đẩy lao động nữ tham gia đào tạo ở các lĩnh vực STEM để đáp ứng quá trình phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0.

Thứ hai, trong công tác giảm nghèoCần thay đổi cách tiếp cận về lồng ghép giới trong các chương trình, chính sách giảm nghèo. Việc nhấn mạnh nguyên tắc ‘ưu tiên phụ nữ’ là cách tiếp cận chưa đầy đủ để đảm bảo bình đẳng giới trong giảm nghèo. Vì vậy, cần thực hiện lồng ghép giới một cách đầy đủ và hiệu quả vào Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững nói riêng và các chính sách giảm nghèo nói chung. Lồng ghép giới trong các chương trình, chính sách giảm nghèo cần được cụ thể hóa các cơ chế và quy định cụ thể, bao gồm cả phân bổ ngân sách và nguồn lực đầy đủ để thực hiện lồng ghép giới trong thực tế.

Thể chế hóa quy trình lập kế hoạch có sự tham gia trong Chương trình, bảo đảm tiếng nói và sự tham gia của các nhóm phụ nữ. Nâng cao năng lực thực hiện lồng ghép giới cho đội ngũ cán bộ phụ trách công tác giảm nghèo là hết sức cần thiết. Về nội dung cần tập trung vào các phương pháp, kỹ năng lồng ghép giới trong quá trình thực hiện chương trình, chính sách giảm nghèo.

Thứ ba, trong thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế theo hướng bắt buộc bao phủ toàn bộ lực lượng lao động; cải cách hệ thống hưu trí, đổi mới chính sách bảo hiểm tự nguyện, phát triển bảo hiểm hưu trí bổ sung, thu hút người lao động tham gia và đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người lao động đang làm việc và người hưởng lương hưu. Trong đó, chú trọng sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH tự nguyện dựa trên nguyên tắc đảm bảo bình đẳng giới để khuyến khích lao động nữ tham gia, bao gồm bổ sung các chế độ thai sản và ốm đau, tăng mức hỗ trợ đóng.... Hoàn thiện cơ chế quản lý, đầu tư Quỹ bảo hiểm xã hội an toàn, hiệu quả, bền vững.

Về Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): Cần phát huy đầy đủ các chức năng của BHTN, thực hiện các giải pháp đồng bộ hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động; chú trọng đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm cho lao động bị thất nghiệp. Hoàn thiện chính sách BHTN, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì sản xuất kinh doanh chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp và duy trì việc làm bền vững cho người lao động, đặc biệt lao động thanh niên, lao động ở nhóm tuổi cao. Mở rộng đối tượng tham gia BHTN tới lao động mùa vụ, lao động có hợp đồng lao động từ 1 tháng trở lên và lao động giúp việc gia đình có hưởng lương.

Thứ tư, trong thực hiện trợ giúp xã hội: Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về TGXH theo hướng hỗ trợ kịp thời những người có hoàn cảnh khó khăn, người có thu nhập thấp, người cao tuổi, người khuyết tật và gia đình có trẻ em; cần xây dựng chính sách TGXH phù hợp hỗ trợ hộ gia đình chăm sóc trẻ em dưới 36 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, hộ có hoàn cảnh khó khăn sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng DTTS; từng bước nâng mức chuẩn TGXH, bảo đảm mức sống tối thiểu cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn; nghiên cứu xây dựng luật TGXH, từng bước áp dụng số an sinh xã hội cho người dân. Phấn đấu đến năm 2045, hỗ trợ gia đình chăm sóc trẻ em dưới 16 tuổi.

Xây dựng hệ thống TGXH linh hoạt, thích ứng với các rủi ro. Phát triển và đa dạng hoá các dịch vụ TGXH, dịch vụ công tác xã hội chuyên nghiệp; tăng cường chính sách và dịch vụ trợ giúp giải quyết vấn đề bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em bị xâm hại; có chính sách, chương trình hỗ trợ tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội cơ bản đối với tất cả người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS, vùng sâu vùng xa và những người có hoàn cảnh khó khăn.

Thứ năm, bảo đảm một số dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân

Về dịch vụ y tế, phát triển BHYT toàn dân, phấn đấu đạt và duy trì lâu dài trên 95% dân số tham gia BHYT; xây dựng chính sách đa dạng hoá các gói BHYT, trong đó có bảo hiểm chăm sóc dài hạn và tăng cường liên kết, hợp tác với BHYT thương mại; chú trọng phát triển mạng lưới y tế cơ sở theo hướng nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế và chất lượng khám chữa bệnh cho người dân; chú trọng chăm sóc sức khoẻ tâm thần, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho cả nữ và nam, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Thực hiện chính sách về dinh dưỡng, nâng cao tầm vóc, thể lực, đặc biệt là trẻ em vùng đồng bào DTTS, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đảm bảo vệ sinh và an toàn thực phẩm cho mọi người dân. Phấn đấu đến năm 2030, tuổi thọ trung bình của người dân khoảng 75 tuổi; tỉ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản xuống dưới 42/100.000; tỉ lệ tiêm chủng mở rộng đạt 95% với 14 loại vắc xin; tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi dưới 15%; cơ bản chấm dứt bệnh lao.

Về giáo dụchoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, bảo đảm công bằng và bình đẳng, phục vụ học tập suốt đời; tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ, từng bước thực hiện phổ cập giáo dục cho trẻ mẫu giáo dưới 5 tuổi; phát triển mạng lưới trường lớp công lập ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và miền núi, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đông dân cư. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục khu vực miền núi, vùng cao, vùng đồng bào DTTS, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo; quan tâm đến đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, phụ nữ, trẻ em gái và những người yếu thế “đan xen” khác; tăng cường giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học đạt 99,5%, cấp trung học cơ sở đạt 95%, cấp trung học phổ thông và tương đương đạt 75%; 90% tỉnh, thành phố đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2; tỉ lệ trẻ em DTTS hoàn thành cấp trung học cơ sở đạt 90%.

Về nhà ở, bảo đảm nhà ở có chất lượng cho tất cả người dân; tạo sự ổn định xã hội và phúc lợi nhà ở cho các tầng lớp dân cư; có chính sách hỗ trợ bảo đảm nhà ở cho người có thu nhập thấp, công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu vực thành thị, người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nhà ở cho người lao động. Phấn đấu đến năm 2030, diện tích nhà ở bình quân đầu người toàn quốc đạt khoảng 30 m2 sàn/người.

Về nước sạch và vệ sinh môi trường, bảo đảm nhu cầu thiết yếu về nước sạch sinh hoạt đối với tất cả người dân theo hướng đạt chuẩn quốc tế, đặc biệt người dân vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị thiên tai; Nhà nước có chính sách cung cấp nước sạch cho các cơ sở giáo dục, y tế và các cơ sở thiết yếu khác. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân; giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm do nước thải, rác thải, khí thải và an toàn vệ sinh thực phẩm; ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ suy thoái và ô nhiễm môi trường; đặc biệt giải quyết vấn đề rác thải, nước thải khu vực nông thôn, miền núi. Phấn đấu đến năm 2030, trên 95% dân số được dùng nước sạch theo tiêu chuẩn quốc gia; trên 98% hộ gia đình sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.

Về bảo đảm thông tin, tăng cường hỗ trợ người dân tiếp cận thông tin, công nghệ số và bảo vệ người dân, các nhóm yếu thế an toàn trên môi trường mạng. Thiết lập các cụm thông tin điện tử công cộng phục vụ tuyên truyền đối ngoại tại cửa khẩu biên giới và cung cấp nội dung thông tin phục vụ tuyên truyền ở các xã biên giới; cung cấp dịch vụ thông tin công cộng tại các điểm cung cấp dịch vụ bưu chính công cộng phục vụ tiếp cận thông tin của nhân dân ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ LĐ-TB&XH (2023). Tổng kết 40 năm “đổi mới” lĩnh vực bình đẳng giới.

2. CARE, Oxfam & SNV (2018). Đánh giá độc lập về giới trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020.

3. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF, 2023). Báo cáo “Khoảng cách Giới Toàn cầu 2023”.

4. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 10/6/2012. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020.

5. Nguyễn Thị Hồng Vân (2023). Kết quả thực tiễn là minh chứng bác bỏ các luận điệu sai trái về bình đẳng giới ở Việt Nam. Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/

6. Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2013. Luật Việc làm năm 2013.

7. Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2014. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

8. Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2014. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014.

9. Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2019. Bộ luật Lao động năm 2019.

10. Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

11. Tổng cục Thống kê (2021). Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019: Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam.

12. UNDP (2023). Báo cáo Phát triển Con người (HDR) toàn cầu 2021/22.

13. UN Women (2020).  Báo cáo rà soát kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.

14. UN Women (2021). Báo cáo an sinh xã hội đối với phụ nữ và trẻ em gái ở Việt Nam giai đoạn 2012-2020.

15. UNICEF (2022). Dự thảo báo cáo nghiên cứu về việc thế chế hóa giới trong cải cách trợ giúp xã hội tại Việt Nam: Tìm hiểu các cơ chế, quy trình và chủ thể quyết định việc lồng ghép giới vào hệ thống an sinh xã hội.

16. World Bank (2021). Việt Nam thích ứng với xã hội già hóa. 

https://documents1.worldbank.org/curated/en/784411632385661926/pdf/Vietnam-Adapting-to-an-Aging-Society.pdf

 

 

[1] Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF, 2023), Báo cáo “Khoảng cách Giới Toàn cầu 2023”. Chỉ số khoảng cách giới toàn cầu là thước đo được sử dụng để đánh giá hiện trạng và sự phát triển của bình đẳng giới trên 4 khía cạnh chính bao gồm kinh tế, giáo dục, y tế và chính trị.

[2] UNDP (2023), Báo cáo Phát triển Con người (HDR) toàn cầu 2021/22.

[3] CARE, Oxfam & SNV, 2018. Đánh giá độc lập về giới trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020.

[4] Bà Rana Flowers, Đại diện UNICEF tại Việt Nam cho biết, trong điều kiện bình thường vẫn có khoảng 60% trẻ em không được hưởng các chương trình hỗ trợ khác nhau.

[5] Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2017 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.

[6] UNICEF, 2022. Dự thảo báo cáo nghiên cứu về việc thế chế hóa giới trong cải cách trợ giúp xã hội tại Việt Nam: Tìm hiểu các cơ chế, quy trình và chủ thể quyết định việc lồng ghép giới vào hệ thống an sinh xã hội.

[7] Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 10/6/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020.

[8] UN Women, 2020. Báo cáo rà soát kết quả thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020.

[9] Thâm dụng lao động dùng để chỉ một quá trình hoặc ngành công nghiệp đòi hỏi một lượng lớn lao động để sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Phát huy vai trò của phụ nữ Việt Nam trong thời đại mới” tháng 12/2023