Hưởng Thụ và Tiết Chế (Indulgence vs Restraint) Trong Giao Tiếp Liên Văn Hóa

 


Doãn Thị Ngọc-GV-Trường Đại Học Hoa Sen

 

Trong khuôn khổ mô hình sáu chiều kích văn hóa của Geert Hofstede, chiều kích Hưởng Thụ và Tiết Chế (Indulgence vs Restraint) được bổ sung cuối cùng. Chiều kích này được đưa vào để lý giải sự khác biệt trong mức độ xã hội cho phép hay hạn chế việc thỏa mãn các nhu cầu và ham muốn tự nhiên của con người như: niềm vui, hạnh phúc, hoạt động giải trí, tinh thần làm việc, phúc lợi xã hội, thời gian nghỉ ngơi hoặc kiểm soat bản thân theo các chuẩn mực xã hội. Ở Việt Nam và trên thế giới, sự khác biệt này ngày càng bộc lộ rõ trong bối cảnh toạn cầu hóa, công nghệ số, đổi mới sáng tạo và lối sống thay đổi. Bài viết này xoay quanh việc thảo luận nguồn gốc; khái niệm; đặc điểm khác nhau giữa xã hội; phân tích qua ví dụ minh họa, xu hướng toàn cầu hóa (Hofstede, 1991, 2010, 2015).

 

1.    Nguồn gốc của chiều kích hưởng thụ và tiết chế

Chiều kích hưởng thụ và tiết chế do Michael Minkov phát triển dựa trên dữ liệu từ Khảo Sát Giá Trị Toàn Cầu-World Values Survey (WVS)  về giá trị và được thực hiện trong giai đoạn 1995-2004 trên mẫu đại diện ở trên 93 quốc gia. Minkov nhận thấy rằng mức độ hạnh phúc, thái độ với cuộc sống, niềm tin vào khả năng kiểm soát số phận, tần suất tham gia hoạt động xã hội và giải trí, vai trò bạn bè, tôn giáo, chuẩn mực tình dục phản ánh rõ nét giữa các xã hội “hưởng thụ và tiết chế” (Hofstede & Minkov, 2010).

 

2.    Khái niệm và ý nghĩa thực tiễn

Theo Hofstede (2015), xã hội hưởng thụ (indulgence) cho phép con người tự do thỏa mãn các nhu cầu và ham muốn cơ bản. Các cá nhân có xu hướng biểu hiện cảm xúc tích cực, tham gia các hoạt động giải trí, thể thao, du lịch, coi trọng niềm vui và thời gian rảnh rỗi. Ở xã hội hưởng thụ, các cá nhân có xu hướng tăng tần suất các hoạt động hội họp, hòa nhạc, ngày nghỉ, thái độ khoan dung hơn với các chuẩn mực xã hội. Điều này dẫn đến họ có cơ hội trải nghiệm niềm vui và hỗ trợ cộng đồng và xã hội cao. Họ thường cảm thấy có quyền kiểm soát cuộc sống, dẫn đến mức độ hạnh phúc và gia tăng phúc lợi xã hội.

 

Ngược lại, xã hội tiết chế (Restraint) duy trì các chuẩn mực nghiêm khắc và hạn chế việc thể hiện cảm xúc cá nhân. Cá nhân được kỳ vọng kiểm soát hành vi, tuân thủ kỷ luật và ưu tiên lợi ích tập thể hay chuẩn mực xã hội hơn. Ở xã hội tiết chế, mắc dù xã hội có vẻ ổn định, an ninh, và trật tự cao hơn, nhưng sự kìm nén cảm xúc của cá nhân trong các mối quan hệ và sự ràng buộc về mặt chuẩn mực có thể dẫn đến cảm nhận tự do cá nhân ít đi. Điều này ảnh hưởng tiêu cực tới mức độ hạnh phúc khi họ tự báo cáo (Hofstede, 1991, 2011, 2015).

 

3.    Đặc điểm khác nhau giữa xã hội hưởng thụ và tiết chế

Các nền văn hóa hưởng thụ cao có những đặc điểm sau đây:

·      Con người cảm thấy hạnh phúc và khỏe mạnh hơn

·      Đề cao quyền tự do ngôn luận và tự do cá nhân

·      Có xu hướng lạc quan, cởi mở, coi trọng tình bạn và giải trí

·      Tỷ lệ tham gia giải trí và thể thao cao hơn

·      Thường có tỷ lệ sinh cao (ở quốc gia có trình độ giáo dục cao)

·      Dễ dẫn đến béo phì (ở các quốc gia giàu).

 

Các nền văn hóa tiết chế cao có những đặc điểm sau đây:

·      Con người thận trọng, bi quan, ít cảm thấy hạnh phúc và coi trọng trật tự xã hội

·      Đề cao việc tuân thủ kỷ luật

·      Coi trọng đạo dức và chuẩn mực xã hội nghiêm khắc

·      Ít hoạt động thể thao, giải trí

·      Thường có tỷ lệ sinh thấp

·      Ít bị béo phì.

 

4.    Minh họa qua các ví dụ thực tế

Việt Nam được xem là một xã hội thiên về tiết chế. Điều này thể hiên qua chuẩn mực đạo đức truyền thống, ảnh hưởng bời tư tưởng Nho Giáo, Khổng Tử , chiến tranh, thời bao cấp, đói khát, kinh tế khó khăn, và tư tưởng ăn chắc mặc bền. Thế hệ Gen Y trở về trước thường nhấn mạnh việc “kiềm chế bản thân”, ưu tiên việc làm chăm chỉ, tập trung học tập hơn là vui chơi giải trí. Họ tiết kiệm để phòng lúc khó khăn, lao động nhiều, nhẫn nhịn cao. Họ vẫn coi những phẩm chất này là quan trọng trong cuộc sống. Tuy nhiên, Gen Z trở đi có xu hương dịch chuyển sang tư tưởng hưởng thụ như: sự phổ biến của du lịch trải nghiệm, dưỡng thân-dưỡng thể, đi chữa lành, đi xem phim, đi uống cà phê, xem hòa nhạc như “ Concert Quốc Gia”, “Anh Trai/Em Xinh Say Hi”, BlackPink, nhạc điện tử, Rap Việt, tham gia thể thao nhiều hơn, giải trí trực tuyến. Văn hóa “check-in”, “sống ảo” trên mạng xã hội, Youtuber, Streamer khá phổ biến phản ánh nhu cầu hưởng thụ cá nhân ngày càng mạnh mẽ. Các hoạt động âm nhạc đa dạng, hoạt động thể thao công đồng như đua xe đạp, chạy điền kinh vì cộng đồng. Các phong trào thúc đẩy bình đẳng giới như Việt Pride, tổ chức các hội thảo, workshop về bình đẳng giới hay biến đổi khí hậu. Dù có nhiều thay đổi tích cực, Việt Nam vẫn duy trì nhiều yếu tố tiết chế như đề cao “hiếu đạo”, áp lực phải thành công trong học tập, tự do ngôn luận giữa các mối quan hệ vẫn còn hạn chế -né tránh-vòng vo-im lặng-ngại nói thẳng vào đúng vấn đề, và vẫn có sự giám sát chặt từ gia đình đối với thanh niên.

 

Nhật Bản cũng là xã hội tiết chế được hình thành từ tinh thần kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp cao. Sau chiến tranh thứ II, Nhật Bản phát triển kinh tế thần kỳ (1950-1980). Thế hệ đi trước đề cao lao động chăm chỉ và xuất hiện hiện tượng Karoshi (chết vì làm việc quá sức). Giải trí có nhưng mang tính nghi thức (uống rượu với đồng nghiệp sau giờ làm việc). Trong khi đó, thế hệ trẻ ngày nay thể hiện xu hướng hưởng thụ và thoát khỏi sự ràng buộc như văn hóa otaku, anime, mamga, cosplay, làm Youtuber, Streamer trở thành hình thức tự do biểu đạt. Phong trào “freeter”- người làm việc bán thời gian-thể hiện khát vọng tận hưởng cuộc sống.

 

Ngược lại, Hoa Kỳ là xã hội hưởng thụ cao. Thế hệ Baby Boomers (sau WWII) đã trải qua phong trào hippie, rock & roll, phong trào bình đẳng giới, tự do tình dục-thể hiện xu hướng hưởng thu cao. Tuy nhiên, những gia đình truyền thống, gía trị tiết chế vẫn được giữ (tiết kiệm, làm việc chăm chỉ, “American Dream”). Thế hệ Gen Z trở lại đây còn nhấn mạnh sự hưởng thụ cao hơn. Văn hóa tiêu dùng trải nghiệm như: du lịch, lễ hội âm nhạc, ẩm thực đa dạng, streaming Netflix. Người Mỹ đề cao tự do cá nhân, sự tự quyết, tự lựa chọn phong cách sống, ví dụ: YOLO – You Only Live Once. Tuy nhiên, do khủng hoảng kinh tế năm 2008 và biến đổi khí hậu, nhiều người trẻ Mỹ bắt đầu kết hợp hưởng thụ có trách nhiệm: tiêu dùng xanh, du lịch bền vững, phong trào tối giản.

 

Tóm lại, so sánh giữa ba nước Việt Nam, Nhật Bản và Mỹ cho thấy:

·      Việt Nam: chuyển dịch rõ rệt từ tiết chế => hưởng thụ trong giới trẻ, nhưng vẫn đan xen giá trị truyền thống.

·      Nhật Bản: xung đột giữa tiết chế truyền thống (tinh thần làm việc chăm chỉ) và mong muốn hưởng thu văn hóa otaku và tự do cá nhân.

·      Hoa Kỳ: vốn đã là xã hội hưởng thụ cao, nhưng giới trẻ bổ sung thêm tư duy “hưởng thụ bền vững, hưởng thụ xanh”.

 

Như vậy, sự khác biệt thế hệ cho thấy văn hóa luôn thay đổi theo bối cảnh kinh tế, chính trị, công nghệ và toàn cầu hóa.

 

5.    Xu hướng toàn cầu hóa và chuyển dịch giá trị

Toàn cầu hóa và công nghệ số, đặc biệt mạng xã hội (Facebook, TikTok, Instagram) đã lan tỏa văn hóa hưởng thụ mạnh mẽ. Các thế hệ trẻ trên toàn cầu có xu hướng đề cao sự tự do, niềm vui, trải nghiệm tiêu dùng. Ngược lại, nghiên cứu ở các nước tiết chế như: Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc cho thấy các giá trị, chú trọng kỷ luật, kiểm soát truyền thông vẫn được duy trì và song hành cho phép mở rộng ngành công nghiệp giải trí để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của giới trẻ.

 

Tóm lại, chiều kích Hưởng thụ và Tiết Chế (Hofstede & Minkov, 2010) là công cụ phân tích quan trọng sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia. Đồng thời, Việt Nam đang có sự chuyển dịch từ tiết chế -> hưởng thụ trong giới trẻ. Điều này phản ánh quá trình biến đổi văn hóa trong bối cảnh văn hóa toàn cầu và nền kinh tế thị trường và thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Việc hiểu rõ chiều kích này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về xã hội Việt Nam hiện đại, mà còn hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách trong việc linh hoạt thích ứng với giá trị thay đổi và nhu cầu xã hội.

 

Tài liệu tham khảo

Hofstede, G. (1991). Cultures and Organizations: Software of the Mind, Intercultural Cooperation and Its. New York: McGraw-Hill.

Hofstede, G. (2011). Dimensionalizing Cultures: The Hofstede Model in Context. Online Readings in Psychology and Culture, 2(1). https://doi.org/10.9707/2307-0919.1014

Hofstede, G., Hofstede, G. J., & Minkov, M. (2010). Cultures and Organizations: Software of the Mind (3rd ed.). New York: McGraw-Hill.

Hofstede. G. (2015). Truy cập từ website https://geerthofstede.com/geert-hofstede-biography/

 


Không có nhận xét nào: