Rào Cản Trong Giao Tiếp Liên Văn Hóa (Barriers of Intercultural Communication)

 

Nguồn ảnh: https://pms.edu.vn/


Doãn Thị Ngọc – GV Trường Đại Học Hoa Sen

 

Trong bối cảnh toàn cầu ngày nay, giao tiếp liên văn hóa trở thành điều hiển nhiên. Tuy nhiên, để giao tiếp hiệu quả và tốt đẹp với những người cùng hoặc khác nền văn hóa với ta thật không dễ dàng vì khi tương tác, ta có lúc cảm thấy bối rối, khó chịu và thậm chí hiểu lầm hay xấu nhất là xung đột về văn hóa. Trong giao tiếp liên văn hóa, ý định tốt, cách tiếp cận thân thiện, lịch sự, hay hai bên cùng có lợi dường như vẫn chưa đủ đê đảm bảo các bên hiểu lẫn nhau. Theo Barna (1997), việc xây dựng mối quan hệ mới giữa các nền văn hóa khác nhau tạo ra sáu rào cản chính mà không phải ai cũng sẵn sàng đối mặt.

 

Thứ nhất, CẢM GIÁC LO LẮNG (ANXIETY) hay căng thẳng là một trong những rào cản chính. Theo Barna, lo lắng có nghĩa là người ta thường KHÔNG biết mình sẽ làm gì trong hoàn cảnh giao tiếp đó và thường chỉ tập trung vào cảm giác lo lắng mà quên đi sự có mặt của ta và người đối diên trong tương tác giao tiếp đó. Trên thực tế, khi giao tiếp với người lạ hay người có văn hóa khác nhau có thể gây lo sợ cho một trong hai bên hoặc cả hai vì con người thường trải qua trạng thái căng thẳng do bất định và mất kiểm soát. Nếu mức căng thẳng vừa phải sẽ giúp ta linh hoạt trong giao tiếp với người khác văn hóa với ta, ngược lại, nếu mức căng thẳng quá cao, nó sẽ dẫn đến cơ chế phòng vệ như: rút lui, lo sợ gặp mặt, né tránh, bóp méo thông tin, hoặc có phản ứng thù địch với người khác biệt về văn hóa.

 

Hiện tượng sốc văn hóa chính là hệ quả khi căng thẳng, lo âu kéo dài, khiến cá nhân cảm thấy mất phương hướng, tự ti và thậm chí xuất hiện các triệu chứng trầm cảm từ nhẹ tới nặng và các vấn đề về sức khỏe thể chất nếu không biết các ứng phó hay nhờ trợ giúp. Ví dụ: một sinh viên Việt Nam thường xuyên khóc và né tránh giao tiếp mỗi ngày khi học tập ở Mỹ, thường ngủ nhiều, không ra khỏi phòng, không muốn học tập hoặc vỡ mộng thì đây có thể là những biểu hiện của sốc văn hóa do lo lắng quá độ.

 

GIẢ ĐỊNH GIỐNG NHAU THAY VÌ KHÁC NHAU là rào cản thứ hai trong giao tiếp liên văn hóa. Nếu một cá nhân ngây thơ và cho rằng có sự giống nhau giữa các nền văn hóa giúp con người giao tiếp dễ dàng hơn thì cá nhân này có thể không nhận thức được có những khác biệt quan trọng giữa các nền văn hóa. Vì sao nhiều người có niềm tin “họ giống mình” như vậy? Có lẽ nhiều người cho rằng con người đều có những nhu cầu chung như ăn, ở, an toàn, yêu thương, thuộc về nhóm, nhưng họ lại bỏ qua phần chìm của văn hóa chính là giá trị, niềm tin, thái độ, phong tục tập quán, thiết chế xã hội, bối cảnh kinh tế-chính trị thường khác nhau ở mỗi nền văn hóa. Điều này có thể dẫn đến giao tiếp bị gián đoạn hoặc thậm chí là xung đột.

 

Ví dụ: Vào năm 1997, một phụ nữ Đan Mạch đến thành phố New York, Hoa Kỳ đã để lại đứa con gái nhỏ của mình trong xe đẩy bên ngoài một nhà hàng ở Manhattan, còn cô ấy vào nhà hàng mua thức ăn. Những vị khách tại nhà hàng lo lắng cho đứa bé đã gọi điện thoại cho cảnh sát New York. Người phụ nữ đã bị bắt và bị buộc tội gây nguy hiểm cho một đứa trẻ và bị bỏ tù 2 đêm. Người phụ nữ đã giải thích rằng việc để trẻ em không có người trông coi bên ngoài nhà hàng là điều phổ biến ở Đan Mạch. Người phụ nữ Đan Mạch này đã tự nghĩ rằng văn hóa ở New York cũng giống như văn hóa Đan Mạch được để trẻ em bên ngoài nhà hàng như ở Copenhagen. Sự giả định giống nhau này rất nguy hiểm vì gây rắc rối cho chính mình và người khác.

 

Hay việc giải mã các ngôn ngữ không lời cũng là một ví dụ khá thách thức. Nghiên cứu của Ekman (1976) cho thấy một số biểu cảm khuôn mặt là phổ quát trên toàn cầu như vui, buồn, tức giận, ghê tởm, sợ hãi, và hạnh phúc, nhưng cách thức thể hiện và mực độ biểu đạt lại phụ thuộc vào văn hóa của mỗi người, vào bối cảnh của tình huống đó (Ekman & Friesen, 1969). Ví dụ: nụ cười có ý nghĩa thân thiện ở Mỹ khi gặp người lạ hay ai đó, nhưng lại bị xem là khiếm nhã ở Nhật Bản. Do đó, nếu chúng ta bị định hình bới văn hóa thì chúng ta nên chấp nhận rằng ta không thực sự hiểu biết người khác cho đến khi chúng ta tìm hiểu, tham gia vào chính bối cảnh văn hóa đó và xem xét tính riêng biệt của bối cảnh hoặc cá nhân hóa.

 

Điểm chính ở đây là khi chúng ta giả định văn hóa hay con người giống nhau, thay vì có những điểm khác nhau có thể sẽ vô tình không nhận ra sự khác biệt giữa các nền văn hóa. Bởi vì khi chúng ta không có thông tin về một nền văn hóa mới, không tham gia vào bối cảnh đó, chúng ta giả định là giống nhau và có thể tự cho rằng không có sự khác biệt nào cả. Chúng ta sẽ cư xử theo thói quen mà chúng ta đã làm với nền văn hóa quê hương của mình. Nhưng chúng ta nên lưu ý mỗi nền văn hóa là khác nhau và độc đáo ở một mức độ nhất định nào đó.

 

Ngược lại, nếu chúng ta nghĩ văn hóa hoàn toàn khác nhau thì cũng sai và trở thành rào cản lớn trong giao tiếp. Giả định sự khác nhau giữa các nền văn hóa, thay vì hiểu rằng chúng ta vẫn có những điểm tương đồng nhất định cũng có thể dẫn đến việc chúng ta KHÔNG nhận ra các nền văn hóa có điểm chung. Tốt hơn hếtchúng ta nên thận trọng khi đưa ra các giả định và không nên coi như không có gì. Để vượt qua rào cản này, tốt nhất là trong bị kiến thức về giao tiếp liên văn hóa, sẵn sàng học hỏi để hiểu về văn hóa nới mình tới và nhập gia tùy tục như:  "Phong tục ở đây là gì?" Có thể ăn được cái gi? Có kiêng cữ gì không? chứ không phải cho rằng con người là giống nhau - hoặc khác nhau - ở mọi nơi.

 

CHỦ NGHĨA VỊ CHỦNG là rào cản thứ ba. Chủ nghĩa vị chủng nghĩa là cá nhân đánh giá tiêu cực các khía cạnh của văn hóa khác theo tiêu chuẩn văn hóa của mình. Có cá nhân vẫn tin rằng văn hóa của họ tốt hơn văn hóa của những người khác. Điều này có thể dẫn đến hành động thượng đẳng đối với các nhóm khác và không đối xử tốt với họ. Ví dụ: chúng ta có thể nói như sau: Cách ăn uống của Việt Nam đơn giản nhất. Sao mà cách ăn uống muỗng nĩa của phương Tây phức tạp quá. Hay có người sẽ nói, “Sống ở Việt Nam là tuyệt vời nhất, không đâu bằng Việt Nam, vừa an ninh và vừa an toàn.” Ví dụ khác về chủ nghĩa vị chủng: Ở nơi có nhiệt độ mùa hè cao trung bình 43 độ C, việc điều chỉnh giờ làm sang buổi tối, nghỉ trưa dài là hợp lý. Tuy nhiên, người khác văn hóa thức dạy vào 5-6 giờ sáng và không nghỉ trưa có thể cho rằng người ở đây lười biếng. Đó chính là thái độ chủ nghĩa vị chủng.

 

Theo Bennet (1993), có ba giai đoạn của chủ nghĩa vị chủng:

·      Phủ nhận: từ chối hoặc né tránh thừa nhận sự khác biệt

·      Phòng thủ: phản ứng để bảo vệ quan điểm của mình, coi sự khác biệt là mối đe dọa

·      Tối thiểu hóa: Che giấu sự khác biệt bằng cách nhấn mạnh rằng, “Chúng ta đều giống nhau”, thường từ góc nhìn của nhóm quyền lực và đặc quyền.

 

Rào cản thứ tư trong giao tiếp liên văn hóa là ĐỊNH KIẾN và THÀNH KIẾN. Định kiến là những niềm tin hoặc nhận thức được hình thành qua thời gian về một nhóm người, thường mang tính đơn giản hóa hay phóng đại (Samovar & Porter, 1991). Chúng giúp phân loại thế giới nhưng dễ dẫn đến sai lệch. Ví dụ: quan niệm “phụ nữ không giỏi toán và khoa học khiến nhiều nữ giới né tránh học toàn, thấy khó khi học toán, né tránh học ngành IT, STEM, tự giới hạn bản thân (Barna, 1997). Trên thực tế, người ta tuyển nữ giới nhưng làm những công việc truyền thống của nữ, ít có ai được tạo cơ hội để làm công việc truyền thống của nam giới.

 

Thành kiến là thái độ, quan điểm phiến diện, thiên lệch, tiêu cực, thiếu khoan dung đối với một nhóm người cụ thể dựa trên giới tính, chủng tộc, tôn giáo, hoặc quốc tịch (Jandt, 2001). Thành kiến có thể từ mức độ khó nhận biết như vô thức đến mức rõ ràng và có chủ địch. Điều này sẽ dẫn đến sự phân biệt đối xử (Brislin, 1988).

 

Rào cản thứ năm là HIỂU SAI NGÔN NGỮ KHÔNG LỜI. Ngôn ngữ không lời gồm khoảng cách cá nhân, cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, ánh mắt, cách sử dụng thời gian-không gian, sự im lặng, giọng điệu, trang phục, cách tổ chức sắp xếp đồ đạc. Những khác biệt này dễ gây hiểu lầm. Ví dụ về khoảng cách cá nhân, người Việt giữ khoảng cách gần, nhưng người Nhật hay người Mỹ giữ khoảng cách xa hơn một mét là tôn trọng và an toàn. Hay ví dụ về cử chỉ OK, ở Việt Nam và Mỹ có nghĩa là tốt, ổn, được, nhưng ở Pháp là “vô giá trị”, ở Nhật có nghĩa là “tiền”, còn ở Brazil thì được xem là xúc phạm.

 

Cuối cùng là rào cản NGÔN NGỮ. Ngôn ngữ là thách thức lớn trong giao tiếp liên văn hóa, không chỉ nằm ở việc không chung ngôn ngữ. Ngay cả, chúng ta cùng chung ngôn ngữ, con người vẫn hiểu sai  và hiểu khác nhau về ý nghĩa của lời nói hay thông điệp đã nói (hiện tượng: “Ông nói gà bà nói vịt”, “tưởng là họ nói như mình nghĩ nhưng không đúng khi hai bên trao đổi”), khác nhau về ý nghĩa tên gọi, từ vựng, thành ngữ, trải nghiệm, khái niệm, bối cảnh, cá nhân hóa. Ví dụ: Ở miền nam gọi là cái muỗng, nhưng miền bắc gọi cái thìa. Phong tục hay món ăn, gia vị rất khác và rất khó dịch.

 

Tóm lại, sáu rào cản trên đều có thể giảm hiệu quả giao tiếp nói chung và giao tiếp liên văn hóa nói riêng. Việc hiểu sáu rào cản này rất quan trọng và tìm cách vượt qua chúng sẽ giúp nâng cao năng lực giao tiếp và khả năng thích ứng trong môi trường toàn cầu.

 

Tài liệu tham khảo

·      Barna, L. M. (1997). Stumbling blocks in intercultural communication. In L. A. Samovar & R. E. Porter (Eds.), Intercultural communication: A reader (8th ed., pp. 337–346). Belmont, CA: Wadsworth Publishing Company.

·      Bennett, M. J. (1993). Towards ethnorelativism: A developmental model of intercultural sensitivity. In R. M. Paige (Ed.), Education for the intercultural experience (pp. 21–71). Yarmouth, ME: Intercultural Press.

·      Ekman, P. (1967). Universal facial expressions of emotion. California Mental Health Research Digest, 5(4), 151–158.

·      Ekman, P., & Friesen, W. V. (1969). The repertoire of nonverbal behavior: Categories, origins, usage, and coding. Semiotica, 1(1), 49–98.

·      Samovar, L. A., & Porter, R. E. (1991). Intercultural communication: A reader (6th ed.). Belmont, CA: Wadsworth Publishing Company.


Không có nhận xét nào: