Hội thảo “Khung lý thuyết sinh thái xã hội trong phân tích giới và tình dục”

 


Ngày 26 tháng 12 năm 2011 vừa qua, một số giảng viên các phòng ban và Trung tâm Nghiên Cứu Giới và Xã Hội, trường Đại học Hoa Sen đã tham dự buổi hội thảo: “Khung lý thuyết sinh thái xã hội trong phân tích giới và tình dục” do Trung tâm sáng kiến sức khỏe và dân số tổ chức tại Tp Hồ Chí Minh (CCIHP). Giáo sư Michael Lim Tan là diễn giả chính của buổi hội thảo này, ông là người rất nổi tiếng về nhân học y tế ở Philippines và trên thế giới. Ông hiện là Hiệu trưởng trường Khoa học xã hội và triết học thuộc Đại học tổng hợp Philippines. Ngoài cương vị giáo sư hàn lâm, GS Tan còn là một trong các thành viên sáng lập Hiệp hội Giới, Tình dục và Sức khoẻ Đông Nam Á và hoạt động rất tích cực trong các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGOs). GS Tan là tác giả của nhiều cuốn sách và bài viết về các niềm tin liên quan đến sức khoẻ của người dân bản địa, tình dục, sức khoẻ sinh sản-tình dục và các vấn đề về chính sách y tế.


Hội thảo này tập trung vào mô hình sinh thái xã hội của Urie Bronfenbrenner (Bronfenbrenner’s ecological theory) như là một khung lý thuyết để khám phá sâu hơn về Giới và Tình dục, chỉ ra mối liên hệ giữa các cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng, nhà nước, và khả năng ứng dụng thực tế vào các chương trình và chính sách. Ví dụ, các khái niệm về “cái tôi”, “bản dạng”, “nam tính” và “nữ tính” không bao giờ chỉ giới hạn ở cấp độ cá nhân hay trong phạm vi riêng tư, mà luôn có sự tương tác rộng hơn với các hệ tư tưởng trong xã hội về quan hệ ruột thịt trong gia đình và vị thế công dân trong xã hội. Nói một cách khác, bản thân của mỗi cá nhân không chỉ thuộc về cá nhân đó, mà nó còn bị chi phối và tác động bởi các yếu tố môi trường rộng lớn xung quanh chúng ta, đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin bùng nổ như hiện nay.  


Nội dung của buổi hội thảo tập trung vào các cấp độ sau:

1) Hệ thống vi mô (microsystem)

2) Hệ thống trung mô (mesosystem)

3) Hệ thống ngoại vi (Exosystem)

4) Hệ thống vĩ mô (Macrosystem),

5) Hệ thống niên đại (Chronosystem).


Đối với cấp độ tâm lý học cá nhân, tuy Bronfenbrenner không được bàn luận ở đây, nhưng cấp độ này được các nhà tâm lý học nghiên cứu nhằm hướng tới thay đổi hành vi cá nhân. Các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học y tế ngày nay cũng đã nhận ra các yếu tố xã hội và các quy ước xã hội như nhóm đồng đẳng, khái niệm “thân thể”... cần được tìm hiểu sâu và đặt trong các mối quan hệ của nhiều tầng bậc trong xã hội và được ứng dụng các khung lý thuyết khác nhau: lòng tự trọng (self-esteem), phản ứng có điều kiện (conditioning theory), hiệu quả tự thân (self-efficacy), và vị trí điều khiển (locus of control).


Ở cấp độ hệ thống vi mô trong mô hình của Bronfenbrenner (1917), cá nhân không phải là một con người đơn lẻ và thụ động, mà là một tác nhân tích cực, tương tác với gia đình, bạn bè, trường học, hàng xóm, tổ chức tôn giáo, các dịch vụ sức khỏe…Vì vậy, các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu thêm về các vấn đề: mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, mối quan hệ bạn tình/bạn đời…hay quan niệm về bạn tình/bạn đời của người làm mại dâm, các quan niệm này tác động đến mức độ tổn thương trong bạo lực giữa bạn tình/đời như thế nào…Theo Bronfenbrenner, các nghiên cứu về những ảnh hưởng của văn hóa xã hội thường tập trung ứng dụng cấp độ này.


Ở cấp độ trung mô nhấn mạnh đến những mối quan hệ giữa các thể chế trong cấp độ vi mô (thể chế gia đình có mối quan hệ gì với thế chế nhà trường). Cần quan tâm nghiên cứu các mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường, giữa nhà trường và các tổ chức tôn giáo, và giữa sự trải nghiệm trong gia đình và mối quan hệ đồng đẳng. Thí dụ, những trẻ em bị ba mẹ từ bỏ  thường không có mối quan hệ tốt với thầy cô. Tất cả những mối liên hệ này có ý nghĩa gì đối với các chính sách, các chương trình giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, và mối liên hệ trong hệ thống. Vì thế, các nhà phát triển học tin rằng để có một sự phân tích toàn diện về sự phát triển của một cá nhân thì các nhà nghiên cứu cần phải quan sát hành vi của cá nhân đó trong những bối cảnh khác nhau.


Ở cấp độ hệ thống ngoại vi liên quan đến bối cảnh khác nằm ngoài sự kiểm soát của cá nhân (như nơi làm việc, công viên, trung tâm giải trí) ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân và làm cho họ rất dễ bị tổn thương. Nếu như cá nhân liên tục bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực ở những bối cảnh sống khác nhau thì nó sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ của họ với gia đình. Ví dụ, những gì xảy ra ở công sở sẽ ảnh hướng đến mối quan hệ của người phụ nữ với chồng và con. Người mẹ khi được thăng chức và phải đi công tác thường xuyên thì có thể sẽ gây ra những bất hòa trong hôn nhân và tạo ra sự thay đổi trong mối tương tác của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với con cái. Một ví dụ khác, giới trẻ tham gia vào thị trường lao động thường nhận được mức lương cao và được thể hiện tính độc lập; tuy nhiên họ lại không đạt được hiệu quả tự thân (self-efficacy), thí dụ: họ có thể dễ chán, bỏ việc hoặc thiếu tự tin khi gặp những trở ngại trong công việc. Ở tầng bậc này, chúng ta cần tập trung nghiên cứu vào các vấn đề: Phụ nữ trẻ và  việc làm, các hiện tượng tổn thương kép của nhóm người yếu thế (vừa là phụ nữ vừa bị khuyết tật), phụ nữ nhập cư, vấn đề tiếp biến văn hóa đối với những nhóm người nhập cư (như người Việt ở nước ngoài)…


Ở cấp độ vĩ mô, Bronfenbrenner (1986,1995,2000; Bronfenbrenner & Moris, 1998) đề cập tới vấn đề văn hóa trong môi trường sống. Những khuôn mẫu hành vi, niềm tin, và tất cả các yếu tố văn hóa khác của một nhóm người được truyền từ đời này sang đời khác. Các nhà nghiên cứu cần tìm hiểu hệ tư tưởng thế tục nào ảnh hưởng đến định hình giới và tình dục, sự bất bình đẳng trong tình dục và các vấn đề liên quan tới công bằng xã hội? Một số vấn đề mới cần khảo cứu: quan điểm hẹp hòi  đối với tình dục như chỉ có giữa hai giới nam nữ (tác giả dùng thuật ngữ “sexual nationalism”), quyền và vị thế công dân trong tình dục, hệ tư tưởng của nhà nước, vai trò của nhà nước trong kinh tế chính trị, tác động của truyền thông đại chúng lên giới trẻ ngày nay…


Cuối cùng, hệ thống niên đại hay hệ thống chu trình thời gian được hiểu là chu trình phát triển của cả cuộc đời cá nhân qua các sự kiện, các giai đoạn chuyển tiếp cũng như bối cảnh lịch sử xã hội, dấu ấn quan trọng mà họ đã trải qua. Ví dụ: để hiểu chu trình phát triển của con người, chúng ta cần tìm hiểu khía cạnh sinh học của tình dục trong suốt cuộc đời, từ nhỏ đến lớn. Chúng ta cũng cần phải xem xét lại thuyết sinh học nhị phân về nam giới và nữ giới, và thừa nhận nhóm lưỡng giới (intersex-sự rối loạn trong phát triển tình dục), bao gồm cả cách thức Nhà nước xử trí với nhóm người này, các chính sách, và các chương trình.


Tóm lại, buổi hội thảo đã giúp chúng tôi những nhà làm giáo dục được tiếp cận với một mô hình mang tính toàn diện và với các góc nhìn rất thực tiễn từ các cấp độ để có thể ứng dụng vào các vấn đề nghiên cứu khác nhau hay vào các lãnh vực về giới và tình dục. Nói cách khác, mô hình sinh thái xã hội đã không chỉ cho phép chúng tôi nhìn lại những lý thuyết khác nghiên cứu về tình dục mà còn dành những “khoảng trống” cho sự tự chủ và hành động xã hội của cá nhân và các nhóm đối tượng cụ thể, đặc biệt là trong thời đại  thông tin  như hiện nay. Đồng thời, mô hình này còn có thể áp dụng để  phân tích vai trò của lịch sử khi chúng ta tìm hiểu nguồn gốc của con người, quyền lực, hệ tư tưởng Nho giáo và chủ nghĩa Mác với hệ tư tưởng ngày nay.

Doãn Thi Ngọc

Liên kết: A Social Ecological Framework for Exploring Gender, Sexuality and Health in Vietnam

http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/hoi-thao-khung-ly-thuyet-sinh-thai-xa-hoi-trong-phan-tich-gioi-va-tinh-duc