Định kiến và áp lực xã hội đối với nữ tri thức
PGS.TS. Trần Thị Minh
Đức
Đại học quốc gia Hà
Nội
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khi một cách nhìn, một thái độ hay hành vi của
cá nhân, nhóm xã hội được định hình từ trước và phản ánh không đúng sự thật về
đối tượng thì đều là những biểu hiện khác nhau của định kiến. Có thể hiểu, định
kiến xã hội là những thái độ tiêu cực không có cơ sở chắc chắn; một tập hợp các
quan niệm, ý kiến, niềm tin hoặc biểu tượng có tính chất rập khuôn và đơn giản
hoá những đặc điểm bề ngoài về một nhóm người nào đó khiến cho các đặc điểm của
nhóm này bị mô tả một cách cứng nhắc, không chính xác.
Định kiến của xã hội về nhóm nam giới hay nhóm
nữ giới thường được gọi là định kiến giới. Định kiến giới được hiểu là thái độ
có sẵn của xã hội nhìn nhận không đúng về khả năng, về tính cách mà nam giới
hoặc nữ giới nên có, hoặc không nên có; về loại hình hoạt động và nghề nghiệp
mà nam hay nữ giới có thể, hoặc không thể làm. Thậm chí sự ấn định này có trước
cả khi họ được sinh ra. Do xã hội hiện nay vẫn còn những bất bình đẳng đối với
phụ nữ nên khái niệm định kiến giới được ngầm hiểu là định kiến đối với nữ
giới. Định kiến giới hiện nay phản ánh chưa đúng với khả năng thực tế của nữ
giới, đặc biệt là nữ trí thức, do cách nhìn nhận về nữ trí thức bị phiến diện
vào những khuôn mẫu giới truyền thống mà xã hội đã ấn định từ trước cho phụ nữ.
Vì thế định kiến giới tạo nên một sự phân biệt đối xử tiêu cực với nữ trí thức,
trong so sánh với nam trí thức.
Trong khi đó, áp lực xã hội được hiểu là những
sức ép tâm lý của số đông người buộc một cá nhân, hay nhóm người phải thay đổi
suy nghĩ, thái độ hoặc hành vi của mình sao cho phù hợp với các quy tắc, khuôn
mẫu của xã hội. Xét từ góc độ giới, sức ép này thường là các quy tắc công khai
hay ngầm định của nam giới đối với nữ giới. Tuy nhiên, sự thay đổi nhận thức
hay hành vi của nữ trí thức trước những áp lực của định kiến giới phụ thuộc rất
nhiều vào nhu cầu và sự lựa chọn các giá trị mà nữ trí thức cho là quan trọng
trong cuộc đời họ.
Nữ trí thức Việt Nam là những người làm việc
trí óc, họ có năng lực sáng tạo, luôn nhạy cảm với sự công bằng. Vì vậy, những
định kiến và áp lực xã hội đối với nữ trí thức đã thật sự ảnh hưởng tới sự duy
trì hạnh phúc gia đình và phát triển nghề nghiệp của họ. Trong khuôn khổ của
bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích những biểu hiện cụ thể của định
kiến xã hội đối với nữ trí thức và những áp lực xã hội mà nữ trí thức đang phải
“gồng mình” để vượt qua. Bài viết này được phân tích dựa trên những hồ sơ của
các nữ tiến sỹ Đại học quốc gia Hà Nội; những nghiên cứu của chúng tôi về “Định
kiến giới và phân biệt đối xử theo giới” và phân tích từ các cuộc phỏng vấn
nhanh về nữ trí thức của chúng tôi. Ngoài ra, bài viết cũng tham khảo một số
công trình, hay số liệu đã được công bố.
2. ĐỊNH KIẾN XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NỮ TRÍ THỨC
Tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước hiện nay đang khẳng định vai trò ngày càng lớn của nữ trí thức trong tất
cả các lĩnh vực hoạt động trí óc. Tuy nhiên trong nhận thức của không ít người
hiện nay (cả những người có chức vụ, học hàm, học vị chuyên môn cao) họ vẫn còn
có xu hướng đồng nhất các phẩm chất, năng lực của nữ trí thức với các khuôn mẫu
của một người phụ nữ truyền thống, như tính nhẹ nhàng, cả tin, lệ thuộc... Cơ
sở hình thành định kiến đối với các nữ trí thức đó chính là các khuôn mẫu giới
- một biểu hiện của phương thức tư duy cứng nhắc và quá đơn giản khi đánh giá
nhóm trí thức nữ mà không hoàn toàn dựa trên những phẩm chất cụ thể của họ, khi
trong thực tế, tính chất hoạt động của nữ trí thức đã giúp họ tự chủ, phát
triển năng lực trí tuệ; mở rộng nhãn quan dân chủ và khẳng định tiếng nói, vị
trí của mình trong nghề nghiệp và xã hội. Có thể nói, so với các nhóm xã hội
khác, nữ trí thức có nhu cầu bình đẳng và sự tự nhận thức khá cao. Những phân
tích dưới đây sẽ làm sáng tỏ sự định kiến đối với nữ trí thức từ hai yếu tố là
nhận thức và hành vi phân biệt đối xử.
·
Định
kiến thể hiện qua nhận thức
Định kiến giới đối với phụ nữ thường thể hiện
qua ngôn từ, và thể hiện ở niềm tin về những khuôn mẫu giới truyền thống ít
nhiều không còn phù hợp, đặc biệt đối với nữ trí thức. Với tư cách là đồng
nghiệp ở công sở, trường học, người ta ít nghe thấy những cụm từ công khai mà
trong dân gian thường dành cho chị em, như: “Đồ đàn bà”, “Biết gì mà
nói”, “Đồ ngu”, “Ngu như bò”. Trong khi những câu nói này vẫn
được “tung ra” một cách tự nhiên trong một số gia đình. Và, dù … ai là ai thì…
ai cũng “thông cảm” được!
Ở công sở, đôi khi bạn trò chuyện một cách
thân tình với một số đồng nghiệp nam giới có học thức cao hay chức quyền, thậm
chí cả với những trí thức trẻ tuổi – những người tự cho mình thuộc “nhóm tiến
thủ”, bạn sẽ “giật mình” và nhận ra rằng bình đẳng giới là một cuộc chiến cam
go về khía cạnh tư tưởng, niềm tin hơn là khía cạnh lợi ích của nữ trí thức hay
vì sự phát triển bền vững của xã hội mà họ đã và sẽ đem lại. Với một số nhỏ
những người này cũng đủ góp phần làm cho cuộc sống của nữ trí thức thêm phần năng
nề, căng thẳng. Chia sẻ với một nghiên cứu sinh nữ trẻ về vấn đề nghiên cứu
khoa học của nữ trí thức, một giáo sư nam thế hệ “cây đa cây đề” nói: ”Để có
một gia đình hạnh phúc thì người phụ nữ nên lui sau chồng một bước, theo thông
lệ chỉ có gà trống mới gáy, còn nếu gà mái gáy thì đó là báo hiệu điều gở sẽ
đến và hơn nữa nếu cả hai cùng gáy thì bao giờ cũng có sự ganh đua và đã là
ganh dua thì sẽ có sự phân chia thắng bại, mà thực tế đã chứng minh rằng khi đó
phụ nữ bao giờ cũng là người bị chịu phần thiệt thòi hơn. Đã là phụ nữ thì đừng
nên học quá cao và cũng đừng nên quá ham trên con đường công danh và sự nghiệp,
bởi vì thượng đế đã tạo nên thiên chức của họ đó là làm mẹ và làm vợ” [Dẫn
theo 3].
Xét từ góc độ quản lý, quan sát biểu hiện của
định kiến giới qua lời nói hàng ngày, chúng ta dễ nhận thấy tính chất hai mặt
trong đánh giá của xã hội về hành vi lãnh đạo của nữ và nam trên cùng một vấn
đề. Những ngôn từ như:anh ấy xông xáo - chị ấy liều lĩnh; anh ấy sâu sát -
chị ấy cầu kỳ; anh ấy ít nói - chị ấy giữ kẽ; ông ấy tự tin - bà ấy tự
phụ; ông ấy vững vàng - bà ấy cứng rắn; ông ấy nghiêm nghị - bà ấy khó khăn v.v…
Những ngôn từ này được các nhà nghiên cứu về giới trên thế giới (ví dụ, From
Doyle, 1983) nói đến nhiều và chúng cũng rất phổ biến ở xã hội Việt Nam.
Chúng ta cũng có thể cảm thấy sự chấp nhận vai
trò lãnh đạo của nữ giới một cách rất… định kiến. Trò chuyện về sự lãnh đạo của
nữ giới, một giảng viên đại học nhận xét:” Ngày nay nam hay nữ lãnh đạo
đều được cả. Nếu một người lãnh đạo là nam giới nhưng thô thiển và thiếu công
bằng thi thà có một lãnh đạo nữ quan tâm và có trách nhiệm với mọi người vẫn
hơn”. Có thể nói: Những ngôn từ hàng ngày nhận định về nhóm nam hay nhóm nữ
gần như được định khuôn trong lời nói, nhận thức của chúng ta và khi chúng được
hoạt hóa, người ta không ý thức hết thái độ định kiến của mình, đặc biết là đối
với nữ trí thức.
Quan sát ở nơi làm việc chúng ta cũng dễ nhận
thấy hiện tượng, nếu một thủ trưởng nam nổi giận, điều này làm cho nhiều người
sợ và không ít người khác lại nể. Dù là gì thì người ta cũng chấp nhận, vì “Anh
ta cần thực thi quyền lực”. Tuy nhiên, nếu một nữ quản lý thể hiện sự giận
dữ như thế, chắc chắn chị ta sẽ bị coi là “Mất kiểm soát”, “Kém năng
lực lãnh đạo”. Và dù bất kể lý do gì chị ta cũng bị “điểm xấu”! Là phụ
nữ, chị ta phải cư xử “nhẹ nhàng” và là trí thức, chị ta phải xử sự cho … “có
học”!
Để làm rõ sự nhận thức mang tính định kiến về
vai trò lãnh đạo đối với nữ giới, chúng tôi làm một khảo sát nhanh trên 150
sinh viên trường ĐHKHXH&NV HN về hiện tượng “Nam trưởng, nữ phó ”. Câu hỏi
chúng tôi đưa ra: “Trong các chức vụ dưới đây (Hiệu trưởng/phó hiệu
trưởng; chủ nhiệm khoa/phó chủ nhiệm khoa; trưởng phòng, ban/phó trưởng phòng,
ban…) ai có thể đảm nhận ( nam hay nữ)? Xin
giải thích lý do? Thật bất ngờ là hầu hết các chức vụ trong
trường đều được tối thiểu 2/3 số sinh viên trả lời dập khuôn theo một mẫu
truyền thống là “nam trưởng, nữ phó”, hoặc thậm chí chỉ có nam lãnh đạo - trừ
duy nhất chức vụ kế toán trưởng là nữ. Một sự giải thích chung chung mà các em
thường đưa ra là: làm lãnh đạo phải quyết đoán, mạnh mẽ;
rằng những phẩm chất thuộc về lãnh đạokhông hợp với nữ giới; hay, nữ
giới vốn tình cảm, nhu mì, không quyết đoán...
Có sự nhận thức khác biệt về khuôn mẫu giới
trong niềm tin và khuôn mẫu giới trong thực tế. Điều này được chúng tôi kiểm
định trên sinh viên ngành Tâm lý học, khi các em học môn Tâm lý học Giới. Kết
quả cho thấy: Khi yêu cầu sinh viên mô tả những nét tính cách, những đặc điểm
của nam giới và của nữ giới (nói chung) thì tư duy của sinh viên thường dập
theo khuôn mẫu giới đang có về nam hay nữ. Sinh viên cho rằng: Nam giới có đặc
trưng là mạnh mẽ, quyết đoán, lãnh đạo, tự chủ, ít nói, tháo vát, linh hoạt
v.v... Còn nữ giới có tính nhẹ nhàng, chung thủy, lắng nghe, nhường nhịn, chịu
khó, tôn trọng người khác v.v... Tuy nhiên, khi yêu cầu các sinh viên mô tả
những nét tính cách, những đặc điểm đặc trưng của mình, thì kết quả lại cho
thấy không hề tồn tại sự khác biệt trong tính cách, đặc điểm của sinh viên nữ
hay nam. Có nghĩa là cả sinh viên nam và nữ đều có gần hết các đặc điểm mà họ
cứ nghĩ đó là của đàn ông hoặc của đàn bà. Nhiều nữ sinh viên nữ nói rằng họ có
các đặc điểm như mạnh mẽ, tự chủ, ít nói, kiên định v.v…, và nhiều nam sinh
viên cho rằng những đặc điểm như nhường nhịn, tôn trọng, tế nhị, biết lắng nghe
v.v… là những phẩm chất có trong con người họ. [2]
Trong cuộc sống, hành vi của nữ giới và nam
giới đều không quá khác biệt. Nữ giới có thể làm những công việc vốn thuộc về
nam giới và ngược lại. Tuy nhiên trong nhận thức, chúng ta thường tư duy theo
khuôn mẫu - cái này thuộc về đàn ông, cái kia của phụ nữ. Các khuôn mẫu xã hội
luôn ủng hộ nam giới trong lĩnh vực nghề nghiệp và hướng đến làm lãnh đạo, còn
đối với nữ giới các khuôn mẫu lại gắn họ với những phẩm chất của người nội trợ,
chăm sóc người ốm, mẫn cảm. Cách xem xét vấn đề của nam giới và nữ giới theo
khuôn mẫu trên là một sự duy trì bất bình đẳng trong nhận thức đối với nữ trí
thức.
·
Định
kiến thể hiện qua hành vi
Sự nhìn nhận không công bằng giữa nam và nữ
trong công việc không chỉ đơn giản thể hiện ở lời nói rập khuôn, mà cả trong
hành vi ứng xử. Câu hỏi đặt ra là: Xã hội đánh giá phẩm chất, năng lực
của nữ trí thức từ thực tế khả năng của họ, hay chúng xuất phát từ khuôn mẫu
giới truyền thống?
Bảng số liệu dưới đây sẽ một phần cho phép làm
sáng tỏ điều này.
Bảng 1: Cán bộ quản lý
hoạt động nghiên cứu khoa học
phân theo giới tính
Các trường |
Chức trưởng |
Chức phó |
||
Nam |
Nữ |
Nam |
Nữ |
|
ĐHQG và 5 ĐH vùng |
83 |
17 |
67 |
23 |
Các đơn vị thành viên của ĐHQG và 29 ĐH vùng |
90 |
10 |
74 |
26 |
5 trường thuộc khối kỹ thuật -Công nghệ |
100 |
0 |
100 |
0 |
5 trường thuộc khối Luật - Kinh tế |
100 |
0 |
83 |
17 |
6 trường khối Nông-Lâm- Ngư |
100 |
0 |
80 |
20 |
8 trường khối sư phạm |
88 |
12 |
50 |
50 |
Nguồn: số liệu thống
kê của vụ khoa học công nghệ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, tháng 5/2006 (dẫn theo 3)
Bảng số liệu 1 cho một vài nhận xét sau:
- Có vẻ như quan niệm “làm khoa học”, “làm
nghiên cứu” thường gắn với nam giới. Vì vậy, việc quản lý hoạt động khoa học
được nhìn nhận là trách nhiệm của nam giới.
- Những trường đại học có ngành, nghề nghe có
vẻ “đàn ông” như khối trường liên quan đến lĩnh vực Kỹ thuật – Công nghệ, hay
các trường thuộc khối Nông – Lâm – Ngư nghiệp, hoặc các trường thuộc khối
Luật – Kinh tế cho thấy không hiện hữu một nữ cán bộ quản lý nào ở chức vụ trưởng.
- Những trường đại học nghe có “chất nữ”, như
đại học sư phạm thì việc quản lý hoạt động khoa học được “san bớt” cho nữ. Tuy
nhiên nữ vẫn chỉ tập trung ở vị trí “lãnh đạo phó”– 50/50%
- Không có đến 20% nữ cán bộ ở các trường đại
học được phân là người phụ trách chính về hoạt động khoa học.
Công việc quản lý hoạt động khoa học ở các
trường đại học thực chất không khó khăn đối với một số nữ trí thức. Chúng tôi
tin là sẽ có ai đó trong số nữ giảng viên ở các trường đó có thể làm được. Liệu
có sự định kiến trong phân cấp quản lý ở các trường đại học do nhận thức của
chúng ta bị dập khuôn theo vai trò giới: Đã là người quản lý thì phải là đàn
ông?
Bình đẳng giới là một vấn đề nhạy cảm đối với
cả hai giới. Đôi khi người ta cứ tránh nhắc đến cụm từ này vì sợ bị hiểu nhầm
là “phụ nữ muốn tranh dành quyền lãnh đạo của nam giới”; hoặc sợ bị gán cho
rằng “nữ trí thức là nguyên nhân làm rối gia đình, làm đổ bể gia đình”. Điều
này có nghĩa là nhận thức của chúng ta về bình đẳng dựa trên quan điểm giới
không phải lúc nào cũng đúng. Các bảng số liệu 2 và 3 mà chúng tôi nêu ra dưới
đây chỉ là những con số ví dụ cụ thể qua đó giúp chúng ta nhìn nhận một thực
trạng định kiến và phân biệt đối xử đối với nữ trí thức rộng lớn hơn, bao trùm
trên bình diện quốc gia (Trong thực tế, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Hà Nội lại là một trong số ít các trường đại học có một nữ quản lý ở cấp
cao nhất – phó hiệu trưởng và có 5 nữ chủ nhiệm khoa, giám đốc trung tâm và
nhiều nữ phó chủ nhiệm khoa).
Bảng 2: Tổng số giáo
viên và sinh viên
(Trường ĐHKHXH&NV
Hà Nội)
Tổng số |
Nam (%/tổng số) |
Nữ (%/ tổng số) |
Giáo viên |
49.2 /171 người |
50.7 /176 người |
Sinh viên |
15.61 /912 người |
84.39 /4928 người |
Ví dụ, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn Hà Nội (ĐHKHXH&NV HN) đến cuối năm 2009 có số lượng giáo viên nam là
171 và nữ là 176. Sự xê lệch về con số đã đủ khiến cho trường “rung chuông báo
động” về sự mất cân bằng giới tính trong giáo viên. Đây là sự thật. Tuy nhiên,
nếu so sánh tổng số sinh viên nam và nữ của toàn trường thì sự chênh lệch giới
tính giữa các giáo viên trong trường thật sự không có gì đáng lo sợ. Hiện nay
(2010) số sinh viên nữ chính quy của trường là 4928 người, trong khi nam sinh
viên chỉ có 912 người. Với tỷ lệ sinh viên nữ đang gấp 6,4 lần so với sinh viên
nam, thì tỷ lệ giáo viên nam chiếm 49,2% so với 50,7% số giáo viên nữ là quá lý
tưởng. Điều cần nói là, khi nhận thức về sự cân bằng, chúng ta thiếu nhạy cảm
về nhận thức giới. Điều này có thể dẫn đến hành vi phân biệt ứng xử trong tuyển
dụng cán bộ, như vô tình cho phép “nới lỏng” tiêu chuẩn tuyển cán bộ nam và
“xiết chặt” đối với ứng viên nữ, ngay cả khi họ vượt trội tiêu chuẩn chung.
Xét trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học của
trường ĐHKHXHNV HN, chúng ta dễ nhận thấy các nữ trí thức ngày càng đóng góp
nhiều hơn vào hoạt động chuyên môn. Có vẻ như giáo viên nữ đang dần bình đẳng
trong tiếp cận với nguồn lực khoa học. Tuy nhiên người ta cũng dễ nhận ra những
đề tài tầm cỡ nhỏ, ít tiền giáo viên nữ thường đảm nhận. Có nhiều lý do khách
quan dẫn đến tình hình này, trong đó có lý do chính nhất là do “Nữ trí thức
không đủ năng lực cạnh tranh với nam giới”. Điều này nói lên rằng vấn đề
bình đẳng giới cần nhìn nhận từ thực tế phụ nữ đang ở vị trí thấp kém so với
nam giới trong nhiều khía cạnh và điều này có nguyên nhân từ sự phân biệt đối
xử trong quá khứ và hiện tại. Việc chấp nhận phương thức đối xử khác nhau giữa
nhóm trí thức nữ và nam để tạo điều kiện cho nhóm nữ có thể dần tiến kịp với
nhóm nam và để chính nhóm nam giới có cơ hội tự hoàn thiện mình là điều cần thiết.
Cách làm này sẽ giảm đi mối quan ngại mang tính dập khuôn là nữ không được việc
bằng nam.
Xét trong lĩnh vực quản lý, Nghị quyết 11 của
bộ chính trị ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đát nước đã xác định các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30%
trở lên nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tuy nhiên thực tế ở tất
cả các cấp tỷ lệ lãnh đạo nữ hầu như rất thấp. Ví dụ, ở cấp bộ trưởng, Việt nam
chỉ có một nữ trên tổng số 24 bộ trưởng.
Nhìn xuống cấp thấp hơn, như ở trường Đại học
ngoại ngữ, ĐHQGHN, số lượng cán bộ giảng dạy là nữ chiếm hơn 4/5 tổng số cán bộ
của trường – 409 cán bộ (năm 2009). Riêng số giảng viên nam từ 1998 đến này
chưa bao vượt quá 100 cán bộ, trong khi sinh viên của trường chủ yếu lại là nữ.
Tuy nhiên trường cũng không có nhu cầu hoặc không thể tìm được một cán bộ quản
lý cấp trường là nữ. Dưới đây là tâm sự của một nữ PGS, TS ở phòng quản
lý khoa học, trường ĐHNN: “Số lượng nữ giới ở trường ngoại ngữ rất đông và
họ đã cống hiến cho xã hội rất nhiều, tham gia đào tạo hàng vạn cử nhân ngoại
ngữ. Nhưng một thực tế cũng rất là đáng buồn, bao nhiêu năm chưa bao giờ có nữ
nằm trong đội ngũ lãnh đạo của ban giám hiệu. Vậy mấu chốt ở đâu? Tôi nghĩ rất
nghiêm túc rằng: Chế độ của chúng ta vẫn là phụ quyền, những vấn đề của phụ nữ
không được quyền quyết định, vì đại đa số những nhà lãnh đạo từ trên xuống thì
vấn là nam giới. Cái khó của nữ trí thức chúng ta là như vậy.”
Rõ ràng chúng ta chưa có chế tài giám sát việc
thực thi các nghị quyết liên quan đến nữ nói chung và quyền bình đẳng giới nói
riêng. Hãy cho nữ trí thức những cơ hội để họ có thể được trưởng thành và được
quyết định những vấn đề liên quan đến họ. Xem xét về địa vị người nữ trí thức
trong các chức vụ quản lý, câu hỏi chúng tôi đặt ra là: Tại sao có quá
ít phụ nữ làm công tác quản lý?
Có thể chỉ ra những định kiến giới như là rào
cản vô hình đối với nữ trí thức, những người có khả năng hoạt động trong lĩnh
vực quản lý và thực tế cho thấy việc xã hội hóa nghề nghiệp của nữ giới không theo
hướng làm lãnh đạo. Nếu chúng ta bắt đầu từ việc xã hội hóa trẻ em gái hiện nay
trong các gia đình thì có vẻ như nữ trí thức có thể đã bị tách ra khỏi thế giới
nghề nghiệp có tính chất quản lý từ trước khi các bé ra đời. Trong nhiều gia
đình Việt Nam, chúng ta vẫn giáo dục trẻ em gái theo khuôn mẫu giới truyền
thống một cách vô thức. Cha mẹ thường cho các bé gái những con búp bê để sau
này các bé biết nuôi con, chăm sóc người khác; cho chơi các đồ hàng để sau này
chúng biết làm bếp giỏi; dạy trẻ em gái chăm ngoan, nghe lời người trên theo
khuôn mẫu nữ truyền thống, người phụ nữ tề gia giỏi, mà không kết hợp dạy cho
trẻ em gái tính chịu trách nhiệm, tự duy độc lập, khả năng hoạt động đa dạng và
chơi những trò sáng tạo như trẻ em trai. Vấn đề không phải là dạy cho bé gái
nam tính giống bé trai, mà giáo dục cho các bé gái những phẩm chất, năng lực
phù hợp với yêu cầu của cuộc sống để các bé gái trưởng thành và vững vàng trong
cuộc sống.
Vào tuổi trưởng thành, các sinh viên nữ dù đã
cố gắng học tập để “vượt qua chính mình”, nhưng phần nhiều trong số họ chỉ được
nhận làm những công việc được xác định là của phụ nữ, như làm giáo viên các cấp
dưới, thư ký giám đốc, kế toán…và thế giới nghề nghiệp của các nữ trí thức trẻ
này bị thu nhỏ cả về số lượng và chất lượng. Trong quá trình lao động, các công
việc mà nữ trí thức được giao thường không có tính chất thử thách, kém tự do
sáng tạo, bị hạn chế môi trường rèn luyện để trưởng thành. Cuối cùng, tại những
thời điểm cân nhắc vào các vị trí quản lý, có sự phân biệt đối xử trong đề bạt.
Các tiêu chuẩn lựa chọn một người làm quản lý được đặt ra có vẻ phù hợp với
những phẩm chất của một người đàn ông, hơn là phù hợp với một vị trí công việc
cụ thể. Ví dụ họ thường tuyển nam giới vì cho rằng: nam giới mạnh mẽ, quyết đoán,
ít bị rằng buộc bởi gia đình… Rõ ràng cuộc đời nghề nghiệp của nữ trí thức đã
bị “tấm trần kính” vô hình cản trở.
Xem xét cụ thể vấn đề tuyển dụng lao động ở
nhóm trí thức, khía cạnh định kiến giới nổi lên khá rõ. Bằng cách liệt kê 1000
quảng cáo tuyển lao động có trình độ tối thiểu từ cao đẳng đang đăng trên trang
Vietnamworks (tháng 2 năm 2010), chúng tôi nhận thấy có 16% tổ chức, cơ quan
yêu cầu rõ ràng về giới tính của người dự tuyển. Trong đó, những công việc như:
kỹ sư công nghệ, kỹ sư kinh tế, trưởng phòng, giám đốc hay giám sát bán hàng,
trợ lý nhân sự, nhân viên thiết kế web, quản lý isso .v.v… đều được ấn định của
nam giới. Những công việc của nữ giới thường là: chuyên viên bảo hiểm, trợ lý
kinh doanh, trợ lý hay thư ký giám đốc, chăm sóc khách hàng, nhân viên đào tạo,
kế toán, nhân viên văn phòng v.v… Nhìn vào 1000 quảng cáo này chúng ta thấy
việc chọn vị trí công việc đã được ấn định từ sự phân loại ứng viên đó là nam
giới hay nữ giới. Cách phân biệt ứng xử trong tuyển chọn lao động đã vô hình
gạt lao động nữ, trí thức nữ khỏi thế giới nghề nghiệp, mà ở đó họ được đào tạo
nghiêm túc và có không ít phụ nữ muốn được cống hiến, muốn được trưởng thành
trong nghề nghiệp.
Đọc hộp một dưới đây chúng ta sẽ thấy được khả
năng làm lãnh đạo, quản lý của nữ trí thức, nếu họ được sống trong môi trường
làm việc không có định kiến giới. Điều này cũng giải thích vì sao có nhiều nữ
trí thức trở thành những lãnh đạo giỏi trong các tổ chức phi chính phủ ở Việt
Nam.
Hộp 1 Nữ lãnh đạo giỏi hơn nam? … Với tư cách giám đốc tài chính và là thành viên hội đồng
quản trị của những công ty Accenture, Travelers, Viacom và Wawa, tôi quan sát
thấy nhiều trường hợp phụ nữ đưa ra những nhận xét và mối quan ngại mà nam
giới chưa kịp nhìn thấy. Họ gợi lên những vấn đề trọng điểm, thúc đẩy mọi
người thảo luận sôi nổi, để cuối cùng cho ra kết quả làm việc tốt nhất, với
sự nhất trí cao độ của các thành viên nhóm. … Cách tốt nhất để bồi dưỡng một phụ nữ vào dàn lãnh đạo là
CEO của công ty phải cùng làm việc sâu sát với cô ấy trong từng dự án cụ thể.
Từ những cơ hội đó, cô ấy vừa học tập kinh nghiệm, vừa tạo mối quan hệ vững
chắc, để có thể phát huy tối đa năng lực khi làm giám đốc hoặc lên vị trí
lãnh đạo sau này. Phụ nữ cũng cần tìm hiểu, quen biết, học tập từ những nam
doanh nhân khác trong dàn lãnh đạo. Những nhân vật đó có thể sẽ cùng các chị
làm việc với chức danh ngang hàng sau này. Những cuộc điện thoại thân tình,
bàn sâu về tình hình công ty và diễn biến kinh tế thế giới giúp họ tăng khả
năng phân tích tình hình…
Nguồn: Doanh nhân Sài Gòn, Người dịch: Bách
Hợp |
3. ÁP LỰC ĐỐI VỚI NỮ TRÍ THỨC
Những ý tưởng dưới đây, thu được từ các cuộc
trò chuyện với nữ trí thức, phần nào làm rõ những rào cản trong phát chuyển
chuyên môn và vị thế xã hội của nữ trí thức,
·
Nữ trí thức vẫn còn
thiếu ý chí, chưa tự tin, ham muốn quyền lực kém hơn nam giới, nữ trí thức vẫn
còn an phận.
·
Nữ trí thức bị ràng
buộc tâm trí, sức lực vào gia đình, họ có trách nhiệm nhiều hơn trong việc chăm
sóc con cái, nội trợ gia đình.
·
Xã hội và các chính
sách, luật chưa thực sự ủng hộ, khuyến khích nữ giới phát triển chuyên môn và
làm lãnh đạo.
Vậy, những sức ép xã hội cụ thể nào một trí
thức nữ có thể gặp phải? Đối với nữ trí thức, áp lực “vượt lên chính mình” có
lẽ là khá nặng nề. Họ cần vượt qua cái rào cản của tính an phận khi khoác danh
là nữ trí thức. Mặt khác, để làm tốt công việc chuyên môn yêu thích, nữ trí
thức lại phải cố gắng thu xếp ổn thỏa việc gia đình để tránh thiên hạ nhòm ngó
và liên tưởng đến “một mụ đàn bà hãnh tiến”. Tuy nhiên sự cố gắng của xã hội
nói chung và của nữ trí thức sẽ không là gì nếu gia đình không thực sự ủng hộ -
ủng hộ bằng hành động và mọi mặt đối với nữ trí thức. Phần dưới đây sẽ phân
tích nhanh những áp lực cụ thể đối với nữ trí thức.
·
Áp
lực vượt lên chính mình
An phận là thuộc tính tâm lý cho phép con
người bằng lòng với thân phận, hoàn cảnh của mình. Cá nhân có tư tưởng an phận
sẽ dễ dàng chấp nhận hiện thực cuộc sống và không có mong muốn gì hơn. Đối với
người trí thức, tính an phận là cái gây khó khăn, gây cản ngại (về mặt tâm lý)
cho phát triển chuyên môn và vị thế xã hội của mỗi người. An phận là một loại
áp lực mà nữ trí thức cần phải tự vượt qua.
Vì sao tính chất an phận thường thấy ở trí
thức nữ mà ít thấy ở trí thức nam? Có lẽ việc xã hội hóa trẻ em theo mô hình
phụ thuộc giới tính của trẻ - theo kiểu nữ giống mẹ, nam giống bố đã tạo nên
tính an phận ở nhóm nữ. Cách cha mẹ mua đồ chơi gì cho con, nói chuyện gì với
con, bảo con làm việc gì trong nhà, và rèn tính cách nào cho con... phần lớn
tuỳ thuộc đứa trẻ là con trai hay con gái, và ở trường học, việc giáo
viên ứng xử với học sinh như thế nào cũng được dập khuôn tuỳ theo giới tính của
chúng, và trong xuốt 18 năm đầu của quá trình xã hội hoá là theo xu hướng giáo
dục các em gái thiên về “nữ tính”, như nhẹ nhàng, dịu dàng; biết chấp nhận,
chịu đựng; biết lắng nghe, vâng lời… nên ở trẻ em gái xuất hiện tính an phận là
điều dễ hiểu. Với cách giáo dục này thì trẻ em gái ở nhà nghe bố mẹ, người lớn;
đến trường nghe thầy cô; đi làm nghe thủ trưởng và tính cách này được tiếp tục
củng cố và trở nên bền vững hơn khi các cô gái vào vai người vợ, người mẹ trong
gia đình.
Những nghiên cứu của chúng tôi vào năm 2000 về
tính an phận của nữ trí thức, sau 10 năm đưa lại cho những trí thức trẻ xem họ
vẫn thấy phù hợp với nữ trí thức trong giai đoạn hiện nay. Đó là:
·
Bằng lòng, thoả mãn
với những gì đang có,
·
Không chịu được căng
thẳng do công việc, ngại khó khăn,
·
Không thích tranh luận
lâu về đề tài khoa học,
·
Ngại thay đổi, ngại
phấn đấu,
·
Trông chờ vào sự sắp
đặt của cấp trên,
·
Đặt công việc gia đình
cao hơn công việc cơ quan .
Lý giải nguồn gốc vì sao vẫn còn nhiều nữ trí
thức có tính an phận, những người tham gia phỏng vấn cho rằng: do họ không muốn
va chạm hay đối đầu; không muốn có thêm rắc rối trong cuộc sống; do tính tự ti;
do gánh nặng công việc gia đình; do không muốn tiến thân; do muốn ưu tiên sự
thăng tiến cho người chồng; do người chồng chưa thực lòng ủng hộ; do xã hội
chưa quan tâm tới nữ trí thức.v.v...và .v.v…
Tính an phận của nhiều chị em nữ có thể được
cải thiện nếu người chồng trong gia đình, thủ trưởng ở cơ quan giúp họ thay
đổi. Tuy nhiên, có một thực tế dễ nhận thấy là: Khi người đàn ông trong vai trò
thủ trưởng, anh ta đòi hỏi các nữ trí thức phải hoàn thành tốt công việc mà anh
ta giao. Những họ trong vai trò là người chồng lại khó có thể chấp nhận việc vợ
mình ham công việc chuyên môn, sao nhãng việc chăm sóc gia đình. Khuôn mẫu mà
nhiều nam giới ngày nay thích thường là một người phụ nữ nhẹ nhàng, có chút an
phận. Nếu cô ta thích làm chuyên môn thì cũng không sao, tuy nhiên cô ta phải
“đảm việc nhà”- vì đó là trách nhiệm của người vợ trong gia đình. Như một giáo
viên trẻ tâm sự: ”Chồng em thường nói, cô muốn học hành lên cao đến đâu tôi
cũng không cản, tuy nhiên việc cô không lo toan gia đình, đón con lúc sớm lúc
muộn thì không thể chấp nhận được. Tôi lấy vợ chứ không phải lấy người học cao.
Nhà này thừa trí thức rồi” (nữ 35 tuổi làm quản lý cấp cơ sở).
Những quan niệm của người chồng theo hướng
ràng buộc nữ trí thức trong trách nhiệm gia đình và ủng hộ tinh thần nữ trí
thức nếu họ muốn phát triển chuyên môn được nhiều chị em chia sẻ. Có vẻ như còn
nhiều nam giới và cả dư luận xã hội chưa thực sự ủng hộ nữ trí thức trong việc
giúp học an tâm làm chuyên môn, như người vợ luôn sẵn lòng ủng hộ cho người
chồng. Việc đánh giá nữ trí thức theo khuôn mẫu của người nội trợ là cơ sở cho
sự nảy sinh, và củng cố tính an phận của nữ trí thức. Xem ra bước qua được áp
lực xã hội để vượt lên chính mình của nữ trí thức không hề dễ.
·
Áp
lực trách nhiệm gia đình
Khi nói về những cản trở trong sự nghiệp
chuyên môn, nguyên nhân đầu tiên mà nhiều nữ trí thức đề cập đến là do nam giới
còn chia xẻ không tương xứng trách nhiệm công việc gia đình, chăm sóc con cái
với phụ nữ. Theo đánh giá của nữ trí thức, các công việc gia đình (nội trợ, dọn
dẹp, giặt giũ, chăm sóc con cái và các thành viên khác trong gia đình...) là
nguyên nhân chính hạn chế khả năng phát triển chuyên môn của họ.
Có một thực tế là nam giới thường ít bị ràng
buộc bởi các công việc gia đình nên họ có thời gian, sức lực để chuyên tâm làm
một công việc đến cùng. Khi thời gian lao động của phụ nữ bị xé lẻ bởi nhiều
việc vặt không tên trong gia đình thì khả năng tập trung chuyên môn của họ sẽ
bị ngắt quãng và khó chuyên sâu. Logic thông thường là khi nữ trí thức tham gia
ngày càng nhiều trong các lĩnh vực hoạt động chuyên môn và xã hội, thì sự tham
gia của người đàn ông trong các công việc gia đình cần phải được tăng lên. Tuy
nhiên, nghiên cứu của Robinson (1997) cho thấy số lượng thời gian người chồng
sử dụng cho công việc gia đình và chăm sóc con cái không liên quan đến việc vợ
của anh ta có một công việc được trả lương hay không. Có nghĩa là người phụ nữ
dù là ai, như thế nào thì công việc gia đình và chăm sóc con cái vẫn là bổn
phận của họ, bất chấp họ làm nội trợ hay lao động kiếm tiền. Hiện tượng này có
thể cũng xảy ra ở Việt nam, khi còn không ít những người chồng chỉ làm một số công
việc nhất định trong gia đình, công việc được gọi là nam tính. Trong một cuộc
trò chuyện với các giảng viên nữ tại ĐHQGHN, GS.TSKH Ngô Thị Thuận (ngành Hóa
học) có nói: “Để làm được khoa học, điều quan trọng nhất là quyết tâm của
bản thân. Các em hãy chọn người bạn đời phù hợp, biết chia sẻ với mình. Gia
đình là một động lực rất quan trọng để ủng hộ người phụ nữ làm khoa học, gia
đình có hạnh phúc, êm ấm thì người phụ nữ mới có thể làm khoa học tốt. Các em
hãy phấn đấu làm những cái mà mình mong muốn, phải có chí hướng và hoài bão”
Việc nam giới ít quan tâm đến
công việc gia đình còn được sự ủng hộ ngầm của người phụ nữ. Nhìn chung, nữ trí
thức có xu hướng coi trọng nghề nghiệp của người chồng, ngay cả khi người vợ
cũng đi làm cả ngày và có công việc quan trọng không kém người chồng. Trong
hội thảo”Doanh nhân nữ trong thời kỳ hội nhập” được tổ chức chiều 18/11/2009
tại Hà Nội, khi được hỏi về những trở ngại đối với doanh nhân nữ, khoảng 80%
những người được hỏi đề cập đến áp lực cao từ công việc và gia đình và sự thiếu
hụt thời gian Một hạn chế rất rõ nét mà các nữ chủ doanh nghiệp đang
phải đối mặt là người nữ lãnh đạo doanh nghiệp vừa phải quản lý, điều hành
doanh nghiệp, vừa phải đảm trách việc nhà.
Liệu có phải tất cả nữ trí thức đều bị công
việc gia đình gây cản trở đến hoạt động trí tuệ của họ? Chắc chắn là không
phải. Quan sát cuộc sống xung quanh chúng ta, có không ít nữ trí thức duy trì
một cách không thuần nhất việc thực hiện các chức năng gia đình như một cơ chế
tự vệ, nhằm che đậy, biện minh cho tính "an phận" và lười nhác của họ
trong hoạt động chuyên môn. Trò chuyện với một nghiên cứu sinh trẻ của một viện
nghiên cứu, chị nói: "Phụ nữ ham hố công việc chuyên môn sẽ ảnh hưởng
đến quan hệ tình cảm, thậm chí nó làm cho phụ nữ già nhanh, không có thời giờ
tự làm đẹp, chồng có thể kiếm cớ đi với người khác. Học cao để mà làm gì!".
Điều chị nói và công việc chị đang làm thực sự là mẫu thuẫn.
Sự ưu tiên cho gia đình, và làm tốt công việc
chuyên môn là điều khó khăn, nhưng nhiều nữ trí thức đã thực hiện được. Trong
trường hợp khác, nữ trí thức có thể chỉ làm tốt một trong hai nhiêm vụ. Đó là
sự lựa chọn của mỗi người. Điều không hay là có không ít nữ trí thức bù trừ
công việc chuyên môn bằng công việc gia đình, khi họ cố “gồng” vào nhiệm vụ
chăm sóc chồng, con như một sự lý giải vô thức những thất bại, những căng thẳng
trong hoạt động nghề nghiệp của họ - Một công việc chắc chắn khó khăn và vất vả
hơn làm nội trợ! Và cuối cùng khi không có công việc nào làm họ thấy hài lòng
thì chính các nữ trí thức lại phóng chiếu những thất vọng của mình vào chồng,
con, tạo nên những rối loạn tâm lý trong gia đình.
Để kết thúc bài viết này, chúng tôi xin trích
lại vài đoạn bài viết của cố BS. Nguyễn Khắc Viện (bài đăng từ thập kỷ
60,thế kỷ XX) để thấy được một cái nhìn trí tuệ và đầy chất nhân văn của ông
trước những bất bình đẳng đối với nữ trí thức.
Phận đàn bà ngày nay Tôi không bàn
đến cái khổ cực của người đàn bà nhà nghèo chịu hai tầng áp bức bóc lột;
người đàn bà trung lưu con nhà khá giả, như cô Kiều, cô Vân thì sao? Kiều thì
khổ, Vân thì không. Vân rất an phận làm người đàn bà, cả một nền giáo dục, lễ
nghi tín ngưỡng đã tạo cho Vân một tâm lý an phận, gặp được bố mẹ nhân từ,
chồng thành đạt, con ngoan là thỏa mãn không ước mơ gì hơn. Vì Vân không có
tài như Kiều, chắc học hành cũng không được bao nhiêu. Xã hội cũ phân chia
phần, xếp ghế đâu đấy cho mỗi người, ai chấp nhận cái tôn ti trật tự ấy là
sống yên ổn, không dằn vặt, trăn trở. Chỉ có những người đàn bà có học, có
tài mới khổ… Freud cho rằng mỗi em
gái đều có những lúc mơ ước làm trai; có lẽ điều ấy trong xã hội xưa chỉ đúng
với những người đàn bà có tài. Mơ ước làm đàn ông, theo Freud, ở thời thơ ấu
là có được "Con chim", tôi nghĩ rằng mơ ước chủ yếu là có một sự
nghiệp giữa xã hội, cho nên lúc còn ngây thơ thì mơ được có "con
chim". Trong một xã hội do đàn bà ngự trị, có lẽ con trai mơ ước có cặp
vú nở nang… Tôi khoanh vấn đề lại
chỉ nói đến những người đàn bà có tài, nghiên cứu khoa học hay sáng tác văn
nghệ. Cứ cho là đẻ hai con, như vậy trong cả cuộc đời, ít nhất cũng phải tạm
ngừng hoạt động ngành của mình mỗi lần 18 tháng, tập trung vào đứa con. Trong
một cuộc đời 40 năm, thì thời gian 36 tháng cũng không đến nỗi quá dài. Trong
thời gian ấy, gia đình, và đặc biệt đức ông chồng cũng phải tập chung giúp
vợ, ông bà cũng vậy. Về phía xã hội, đối với những người phụ nữ có tài năng
cũng nên tập trung giúp đỡ trong giai đoạn này về vật chất, về sắp xếp công
tác… Với một sự giúp đỡ tích cực
ít nhất sẽ có một số chị em có tài không đến nỗi phải qua tấn kịch lựa chọn
găy gắt giữa sự nghiệp và tình ruột thịt với con cái…
Nguồn Tạp chí Tri thức trẻ, 24/08/2009 |
Tài liệu tham khảo
1.
Trần Thị Minh Đức (chủ
biên), Nữ tiến sỹ đại học quốc gia Hà Nội, NXBĐHQGHN, 2006.
2.
Trần Thị Minh Đức, Các
thực nghiệm trong tâm lý học xã hội, NXBĐHQGHN, 2008.
3.
Nguyễn Thị Tuyết, cơ
sở lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường Đại
học Việt Nam theo hướng bình đẳng giới, Luận án tiến sỹ quản lý giáo dục, 2007.
4.
Nguyễn Khắc Viện, Tạp
chí Tri thức trẻ, ngày 24/08/2009
5.
Tập tài liệu về nữ trí
thức trong các trường Đại học, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên
cứu về Phụ nữ, ĐHQGHN, 2006.
http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/dinh-kien-va-ap-luc-xa-hoi-doi-voi-nu-tri-thuc