Quan Điểm Hệ Thống Trong Tham Vấn Tâm Lý Cho Gia Đình
Doãn Thi Ngọc-GV
Trường Đại
Học
Hoa Sen
Ngày
30 và 31 tháng 6, năm 2013, Trường Đại học An Giang tổ chức Hội thảo Quốc tế về Công
Tác Xã Hội và Sức Khỏe Cộng Đồng. GS
Susan Newfield (trường Đại học Y) và GS Neal Newfield (trường
Công Tác Xã Hội)
thuộc Đại học West
Virginia, Hoa Kỳ đã trình bày về các quan điểm
hệ
thống trong trị
liệu tham vấn
tâm lý cho gia đình, cụ thể là,
những
nguyên tắc cốt lõi
trong liệu pháp
gia đình và làm thế nào giúp các cặp vợ chồng và
gia đình tăng khả năng giải quyết vấn đề.
Theo
GS Susan and Neal Newfields, gia đình như những hệ thống, gồm nhiều mối liên hệ qua lại chằng chịt về mặt huyết thống hoặc luật định, cùng chia sẻ những lợi ích,
nhiệm vụ và lịch sử gia
đình. Vì vậy,
để áp dụng hệ thống các
quan điểm vào
việc giải quyết vấn đề trong
gia đình đòi hỏi
nhà tham vấn
(NTV) phải hiểu hệ thống gia
đình là một
hệ thống vừa đóng
vừa mở và được
phân chia thành các tiểu hệ thống có những ranh giới, vai
trò, thứ bậc, tầm ảnh hưởng
bên trong gia đình, sự liên kết, và bị chi phối bới các luật lệ.
Để làm được
điều này
đòi hỏi nhà
tham vấn phải nắm vững
quan điểm về lý
thuyết hệ thống,
giao tiếp,
thay đổi,
truyền
thông Cybernetics, vai trò, và lý thuyết phát triển để đưa ra
những biện pháp
can thiệp phù
hợp. Các
quan điểm của những trường
phái trên có tính đa ngành và có thể vận dụng trong nghiên cứu,
trong việc giải quyết những trường
hợp cụ thể, cũng
như những vấn đề xã hội khác
ở lĩnh
vực sinh
học, tâm
lý, giới và
phát triển, xã
hội, vật lý,
hóa học v.v…
Bài viết này
chỉ tập
trung trình bày các quan điểm lý thuyết hệ thống (systems concepts), lý thuyết thay
đổi, cụ thể là mô
hình trị liệu mối quan
hệ nhân
quả một chiều (A
> B) và mô hình mối quan hệ nhân quả tác động qua lại -circular causality, lý thuyết về giao
tiếp, phương
pháp phân tích và đánh
giá gia đình
bằng công
cụ như biểu đồ gia tộc và
sinh thái, và một số qui tắc cơ bản cần ghi nhớ khi làm việc với gia
đình.
Thứ
nhất, các quan điểm
về
lý thuyết hệ
thống
Hệ thống được
định
nghĩa là một
tổng thể phức hợp gồm nhiều
thành tố tương
tác và phụ thuộc lẫn
nhau. Quan điểm
về hệ thống
cung cấp cho
chúng ta một
khung tổ chức gồm nhiều yếu tố, bộ phận liên
quan và tác động
qua lại với nhau
trong môi trường
xã hội. Ví
dụ, xét
về mặt sinh
học của cơ thể, khi
một cơ quan
nào đó
bị bệnh
(viêm phổi, đau
tim, tiểu đường,
đau răng, hay đứt tay chẳng hạn) thì bác sĩ y khoa sẽ phải xem
xét tiến
trình bệnh tại cơ quan đó
trong mối liên
hệ với cơ quan
và bộ phận khác
và với toàn
bộ cơ thể. Như vậy, nếu có
biến động từ một bộ phận thì
đều tác
động lên
các bộ phận
khác, tác động
lên toàn hệ
thống, và
tác động
theo kiểu quan
hệ nhân
quả xoay
vòng (circular causality). Vì thế, trong liệu pháp
gia đình “tổng thể
quan trọng hơn
bộ
phận”
(Whole is greater than part).
Ví dụ trên
chưa dừng ở đó vì
gia đình cũng là một hệ thống có sự tương tác, phụ thuộc và tác động qua
lại giữa các
thành viên. Nếu
một cá
nhân bị đau ốm thì
không chỉ tác động đến tâm
lý, tình cảm
của cá
nhân đó, mà còn tác động đến các thành viên khác trong gia đình.
Khi một cá
nhân trong gia đình bị bệnh có thể giúp gia đình thay đổi và sự thay
đổi này
sẽ tác động đến tất cả những
thành viên theo hướng tích cực hay tiêu cực. Tuy
nhiên, nhân viên công tác xã hội cần phối hợp với các cơ quan ban ngành khác để hỗ trợ và làm sao giúp các cặp vợ chồng hay
gia đình cân bằng
trong thay đổi.
Đồng thời, phải tìm
hiểu xem
gia đình đó thuộc vào loại hệ thống nào – đóng (closed) hay mở
(open), xa cách (disengaged) hay không gắn bó (enmeshed); tìm hiểu sự phản hồi
(feedback) trong gia đình; những ranh giới
(boundaries) chức năng phân chia theo vai trò; và các
qui tắc
(rules) trong gia đình.
Hệ
thống đóng (closed) có nghĩa là gia đình đó
không giao tiếp
tốt với nhau
hoặc giao
tiếp hạn chế với người
trong gia đình và ngoài xã hội, lẩn tránh giải quyết vấn đề, tạo ra bức tường
ngăn cách giữa
gia đình với
cộng đồng xã
hội,
không tin tưởng
hay không nhờ
sự hỗ trợ từ bên
ngoài. Ví dụ,
một gia
đình có một
người
con đi học cấp hai.
Em này gần đây
học sa
sút và nhân viên xã hội tới gặp gia đình để tìm
hiểu. Nhưng gia
đình
em từ chối
không tiếp, bỏ ngoài
tai những vấn đề học hành
và hành vi thay đổi của con, và không chịu gặp gỡ hay hợp tác
với nhân
viên xã hội
trường
học.
Họ chăm
sóc, bảo bọc,
nuông chiều
con quá mức
và luôn tự
hào rằng con
mình là con ngoan trò giỏi.
Hệ
thống mở (open)
giống như cơ thể sinh
học và
xã hội. Hệ thống này
giúp cho các thành viên trong gia đình vừa có tính tự chủ vừa có
tính phụ thuộc,
cùng có cơ
chế duy
trì sự ổn định bản sắc
trong gia đình, nhưng linh hoạt để thích
nghi và có khả
năng tự thay
đổi với môi
trường
xung quanh. Đây là sự thăng bằng trong gia đình được
duy trì qua sự
phản hồi
(feedback), ranh giới (boundaries), và quy tắc
(rules).
Phản
hồi: Phản hồi tích cực làm gia tăng khả năng
thay đổi,
tăng khả năng
tự điều chỉnh,
tăng khả năng
tổ chức và
phát triển.
Trái lại, phản hồi
không tích cực
thì sẽ làm
cho cá nhân nản
chí, làm giảm
nhiệt huyết, làm
giảm khả năng
thay đổi và
giảm khả năng
tự điều chỉnh.
Ranh
giới:
Gia đình là một
hệ thống,
trong gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, mỗi tiểu hệ thống là một cá nhân thực hiện những chức năng
riêng để duy
trì bản thân
và bảo vệ cả hệ thống như một tổng thể thống nhất. Tiểu hệ thống có
thể được
hình thành dựa
trên các thứ
bậc, như cha mẹ, vợ chồng,
anh chị em,
hoặc theo
giới như: cha
và con
trai, mẹ và
con gái…
Các tiểu hệ thống được
phân chia bằng
những
ranh giới.
Ranh giới bảo vệ tiểu hệ thống và
đồng thời cho
phép tác động
qua lại giữa các
tiểu hệ thống. Có
ba loại ranh
giới – cứng nhắc
(rigid), lỏng
lẻo (too
open), và lành mạnh (healthy).
Ranh
giới cứng nhắc thể hiện sự xa
cách rõ ràng giữa các thành viên trong gia đình, giao
tiếp thường
bị tắc nghẽn hoặc khi
nói chuyện thường
cãi mắng, bảo thủ,
không lắng
nghe nhau giữa
những
thành viên trong gia đình, đồng thời cũng không cho người
lạ xâm
nhập dễ dàng.
Ranh
giới lỏng lẻo là
ranh giới
không rõ ràng, mất tính cách riêng tư của các
cá nhân, khiến
các thành viên quá phụ thuộc, quá gắn bó dẫn tới khó phân định đâu
là cái riêng và đâu là cái chung, mất đi sự phát triển độc lập và mất bản sắc cá nhân.
Ranh
giới lành
mạnh là
ranh giới linh
hoạt, uyển chuyển, và
rõ ràng. Mọi
người
trong gia đình có thể tin tưởng, cởi mở trao đổi, tôn trọng, gắn bó giữa các thành viên trong gia đình nhưng vẫn tạo sự phát
triển độc lập,
tham gia, tự
quyết, mức độ riêng
tư, và trưởng
thành của từng người.
Tùy
thuộc vào
các giai đoạn
phát triển của gia
đình (giai đoạn
có con nhỏ,
giai đoạn có
con vị thành
niên..), các ranh giới có thể di chuyển ở trạng thái cứng nhắc, hay lỏng lẻo, hay uyển chuyển. Thông thường
bệnh lý
của một cá
nhân có thể
bị khởi phát
khi gia đình có những ranh giới cứng nhắc.
Trái lại, nếu gia
đình có những
ranh giới lỏng lẻo thì
có thể gia
đình bị rơi vào trạng
thái hỗn loạn. Những trạng
thái quá xa cách, hỗn độn nếu xảy ra thường xuyên và không có chiều hướng
thay đổi thì
sẽ hình
thành nên những
vấn đề của gia
đình. Lúc đó, gia đình đi gặp nhà tham vấn với sự căng
thẳng
ngày càng gia tăng.
Qui
tắc:
là những qui
định
chung cho phép cá nhân thực hiện những nhiệm vụ trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài vấn đề huyết thống hay
luật định, cá
nhân trong gia đình còn bị chi phối bới những qui tắc, thứ bậc, cùng với nhưng vai trò của từng thành viên trong gia đình. Có những qui
tắc được
công khai (phân chia công việc nhà, vợ
làm gì, chồng làm gì…) nhưng ngược lại có những qui tắc ngầm hay bất thành văn. Ví dụ,
khi ngủ thì vợ
hay chồng ngủ
bên nào-trái hay phải, và cứ
thế mỗi lần
đi ngủ thì ta thường
ngủ bên đã tự
qui định từ
trước. Hay khi vào lớp
học,
chúng ta thường ngồi
một
chỗ và ít khi di chuyển
chỗ ngồi
khác và thường ngồi
chung với bạn
hay người quen. Nói chung, gia đình lành mạnh sẽ có những qui
tắc cơ bản
chung, nhất
quán, rõ ràng, và có thể uyển chuyển thích nghi với sự thay
đổi.
Thứ
hai, quan điểm về
thay đổi trong liệu
pháp gia đình
Quan
điểm thay
đổi cho
rằng
hành vi của
một người
không chỉ liên
quan đến những đặc điểm cá
nhân mà còn liên quan đến bối cảnh tương tác của cá nhân trong môi trường
gia đình và xã hội mà cá nhân sống
trong đó.
Có hai
mô hình về
quá trình thay đổi trong hệ thống- mô hình quan hệ nhân
quả một chiều
(linear causality) và mô hình mối quan hệ nhân quả vòng xoay (circular causality). Về truyền thống,
khi gặp một vấn đề thì
người
ta thường
chỉ xem vấn đề đó ở mối quan
hệ nhân
quả đường
thẳng từ
A>B>C. Ví dụ, một
anh chồng nghiện
rượu
thì đổ thừa
do vợ anh luôn cằn
nhằn nên anh ta chán và tìm rượu
giải sầu.
Vậy
là lỗi do cô vợ
hay cằn nhằn. Vì vậy, người
ta thường
nhắm vào
người
vợ để thay
đổi, chứ không
phải ông
chồng.
Mô
hình nhân quả
tác động qua
lại giữa các yếu tố nhấn mạnh đến hành
vi của mỗi cá
nhân đều có
tác động lên
cá nhân khác trong gia đình, vấn đề gia đình đi theo một vòng
tròn qua lại,
vợ chồng
không đổ lỗi cho
nhau. Mô hình thay đổi mối quan hệ nhân quả qua lại trong trị liệu thì
căn nguyên vấn
đề không
phải chỉ do người
vợ. Anh
chồng đi
uống rượu
hoài về nhà vợ cằn nhằn, vợ anh cằn nhằn do
anh đi uống rượu
hoài và còn nhiều yếu tố khác nữa tác động vào vấn đề này dẫn đến gia đình lục đục triền
miên. Ngoài ra, nếu bà vợ thay đổi mà ông chồng
không thay đổi
thì sẽ tạo là một áp lực ngược
lại cản trở sự thay
đổi của người
vợ. Vì vậy,
thay đổi là một quá
trình và cấp
độ thay
đổi
nhanh hay chậm,
cao hay thấp
còn tùy thuộc
vào từng cá
nhân, từng
hoàn cảnh.
Thuyết thay
đổi nhấn mạnh đến trạng
thái cân bằng
về cấp độ thay
đổi giữa những cá
nhân trong gia đình, tạo điều kiện cho sự thay đổi thông qua giao tiếp cởi mở, nhận diện hướng
mong muốn, kết quả muốn hướng
tới và
các lực cản trước
khi lên kế
hoạch
thay đổi.
Khi
làm việc với cặp vợ chồng,
nhà tham vấn
phải giữ vai
trò trung lập,
lắng
nghe các bên, có sự hiếu kỳ, tò mò nhưng không phê phán, làm việc dựa trên
các mối quan
hệ, tạo điều kiện cho
từng người
bộc bạch về bản
thân, trao đổi
cởi mở, và củng cố giá
trị bản
thân. Ví dụ,
ở buổi gặp đầu
tiên, nên giới
thiệu với thân
chủ, mời từng cá
nhân trong gia đình tự giới thiệu, không để mẹ giới thiệu dùm
con, và mời
từng người
nói về những điều tích
cực, điều muốn thay
đổi ở bản thân
cũng như viễn cảnh
thay đổi cho
toàn bộ gia
đình. Tuyệt
đối
không đề cập tới vấn đề khi vừa mới gặp. Qua
đó có thể tìm
hiểu sự khác
biệt
trong nhận thức của mỗi người
về vấn đề đang
diễn ra,
tìm ra những
nhu cầu,
mong đợi cụ thể của mỗi cá
nhân. Tránh để
vợ chồng
thân chủ có thể phản bác
nhau kịch liệt trước
mặt nhà
tham vấn và
áp dụng những kỹ năng
giao tiếp để họ không
tranh cãi với
nhau, sắp xếp ghế ngồi đối diện với nhà
tham vấn,
thay vì vợ
chồng ngồi đối diện
nhau, cho thời
hạn bộc bạch,
nhìn vào mắt
họ… Nếu họ có
con nhỏ thì cần có
người
chăm sóc trong buổi trị liệu. Trước khi kết thúc buổi trị liệu lần đầu thì nhà tham vấn phải tóm
tắt lại những
thông tin chính, nêu ra những điểm tích cực của mỗi người, điểm chung của những thành viên trong gia đình, vạch ra
những mục tiêu
cụ thể cho
các cá nhân, sắp
xếp và
lên kế hoạch sẽ làm
gì, làm như
thế nào,
mong muốn đạt kết quả gì
cho buổi trị liệu thứ hai.
Thứ
ba, quan điểm về
giao tiếp trong liệu
pháp gia đình
GS.
Neal Newfield đưa ra một tình huống giả dụ, “Bạn được một giải thưởng là một vé máy bay khứ hồi và
có thể đi đến bất kỳ nước
nào mà bạn mong
ước.
Khi bước
lên máy bay, bạn
được
ngồi ở
khoang hạng
sang. Xung quanh bạn toàn là những người
mà bạn ghét
nhưng họ cứ nói
chuyện với bạn”. Vậy bạn phải làm
gì để tránh
những
tình huống
không muốn giao
tiếp nhưng không thể
tránh?
Những người
tham dự đưa ra
nhiều giải pháp
như: giả bộ ngủ, giả vờ lắng
nghe, đọc sách
nhưng thể hiện sự lịch sự bằng
cách chào hỏi
qua loa rồi
đọc tiếp, nói
thẳng với người
đối diện là
mình không muốn
nói chuyện với họ.
Theo
GS Newfields, ngôn ngữ giao tiếp không lời chiếm 75% và thường
người
ta hiểu sai
và diễn dịch
sai. Điều quan
trọng
chúng ta phải
hiểu được
giữa lời
nói và hành động có phù hợp
hay không, hay nói một đường
nhưng làm một nẻo. Vì
vậy,
quan điểm giao
tiếp rất quan
trọng và
được
vận dụng nhiều
trong trị liệu gia
đình. Từ chối giao
tiếp cũng
là một loại giao
tiếp. Nhưng nếu
chúng ta từ
chối giao
tiếp sẽ làm
tình hình căng thẳng kéo dài và vấn đề vẫn bị vướng
mắc và
không được
giải quyết. Ví
dụ, vợ muốn chồng nói
nhưng chồng
không nói hay thoái thác sẽ dẫn đến không khi căng thẳng,
leo thang. Nếu
tình trạng
giao tiếp này
tái diễn liên
tục sẽ dẫn đến đổ vỡ mối quan
hệ.
Loại
giao tiếp digital và analogic
Giao
tiếp theo
kiểu số (digital)
nghĩa là chỉ
đề cập
thông tin mang tính sự kiện (fact), kiểu nói
bằng lời, điệu bộ chỉ thiên
về ý,
không có tứ
và không theo qui tắc nhất định nên khó đoán và dễ hiểu lầm. Ví
dụ,
chúng ta dùng tin nhắn (text) mà người
nhận
không thể giải mã được
mối quan
hệ cảm xúc
của người
gửi với
thông điệp và dễ đưa đến diễn dịch sai và gây tổn thương
trong giao tiếp.
Ngược
lại,
giao tiếp theo
kiểu suy
luận (analogic)
nghĩa là người
nhận và
người
gửi
thông điệp đều hiểu được
cả ý lẫn tứ, hiểu được
nội
dung, cảm xúc
của người
gửi và cả nội hàm
trong giao tiếp.
Ví dụ,
chúng ta dùng tin nhắn nhưng kèm theo những biểu tượng cười. Nhạc, thơ, tranh…là loại giao tiếp analogic không lời.
Loại
giao tiếp bình đẳng
(symmetry) và giao tiếp bổ
sung (complementary)
Giao
tiếp bình
đẳng
(symmetry) là cả vợ và chồng có đều quyền quyết định bình đẳng như nhau, họ có cùng những suy
nghĩ, giá trị,
nhận định
chung về một vấn đề nào
đó. Điều này
sẽ dễ dàng
cho họ trong
giao tiếp vì cả hai
bên đều cùng
nhìn về một
phía. Đối với loại giao
tiếp bổ sung
(complementary) nghĩa là vợ có điểm mạnh của vợ và chồng có điểm mạnh của chồng. Ví dụ, chồng là người giỏi giao tiếp trong nhà thì người
chồng sẽ đảm nhận việc nhận điện thoại khi
có ai gọi và
giao dịch với những người
bên ngoài. Trong khi đó, người vợ lại giỏi về quản lý tài chính trong gia đình thì sẽ đảm nhận vai
trò chi thu, cân đối ngân sách trong gia đình. Hai đặc điểm trên
của vợ chồng bổ sung
cho nhau, giúp gia đình phát triển hài hòa và bền vững.
Vì vậy, khi
làm việc với các
gia đình, nhà tham vấn cần phải áp dụng loại giao tiếp làm sáng tỏ vấn đề của mỗi cá
nhân, tránh việc
hiểu lầm
trong giao tiếp
do nói điều
vô nghĩa, nói lạc đề, nói không hết ý.
Thứ
tư,
phân tích
và
đánh
giá gia đình
(family assessment) bằng biểu
đồ
gia tộc và sinh thái
Nhà
tham vấn đánh
giá gia đình dựa
vào ba điểm
chính sau:
·
Tìm hiểu cấu trúc
gia đình,
·
Xác định
giai đoạn phát
triển của gia
đình, và
·
Tìm hiểu các
chức năng
của gia
đình.
Về cấu trúc
gia đình, nhà tham vấn cần phải xem xét vấn đề của một cá
nhân trong một
khối thống nhất gồm mối quan
hệ bên
trong, bên ngoài gia đình và bối cảnh tương tác giữa gia đình và xã hội. Mối quan
hệ bên
trong cần tìm
hiểu xem
ai có quyền
nhất
trong gia đình? Ai có tầm ảnh hưởng nhất trong gia đình? Cách tổ chức gia
đình ra sao? Ranh giới giữa các cá nhân trong gia đình thế nào?
Về mối quan
hệ bên
ngoài gia đình, cần tìm hiểu các mối liên hệ với bà con họ hàng
và hệ thống cộng đồng xã
hội chặt chẽ hay lỏng lẻo? Nhà
tham vần cần tìm
hiểu về bối cảnh tương
tác giữa gia
đình và xã hội,
họ thuộc sắc tộc,
giai cấp xã hội, và
tôn giáo nào?
Về xác định
giai đoạn phát
triển của gia
đình, nhà tham vần phải xem xét gia đình này đang ở giai
đoạn nào:
Giai đoạn người
trường
thành độc
thân, giai đoạn
lập gia
đình nhưng chưa có con,
giai đoạn gia
đình có con nhỏ,
giai đoạn có
con vị thành
niên, giai đoạn
gia đình có con trưởng thành, hay giai đoạn gia
đình lúc cuối
đời.
Về chức năng
của gia
đình, nhà tham vấn cần phác họa được các hoạt động hàng ngày của từng
thành viên trong gia đình, ví dụ như phân công lao động
theo vai trò giới ra sao, và tâm lý tình cảm của các
cá nhân trong gia đình, bao gồm thái độ, các biểu hiện ngôn ngữ có lời và không lời, vai
trò của từng người,
sắp xếp thứ tự vai vế, các
giá trị trong
gia đình, ai liên minh với ai?...
Dùng công
cụ trong
ngành công tác xã hội để thu thập dữ liệu như: biểu đồ gia tộc (Genogram) and biểu đồ sinh
thái (Ecomap)
Biểu đồ gia tộc
(genogram) là một bản đồ vẽ ra những tiến trình gia đình cùng những tương
tác đã
xảy ra
trong ít nhất
ba thế hệ của một tộc họ. Đi
kèm theo sơ
đồ này có những sự kiện
quan trọng
trong đời sống,
bao gồm những
thay đổi, các
sự kiện, những biến cố trong
cuộc sống của mỗi người,
các yếu tố quan
trọng và
những mối quan
hệ phức tạp bên
trong gia đình.
Nhà
tham vấn (tâm
lý) còn có thể
tìm hiểu lịch sử gia
đình và các vấn
đề của họ thông
qua những biểu đồ gia tộc từ đơn giản đến phức tạp.
Cuối
cùng, những qui tắc
cơ
bản
khi làm việc với
gia đình
Vai
trò và nhiệm
vụ của tham
vấn viên
là giúp các thành viên trong gia đình trở nên tích cực
thông qua việc
tái cấu trúc
tổ chức gia
đình và giúp họ
khơi dậy những điểm mạnh,
giá trị cá
nhân và gia đình, truyền thông cởi mở để họ tự giải quyết vấn đề gia đình một cách
có hiệu quả và có
cơ chế, khả năng
thay đổi linh
hoạt tùy
thuộc vào
các giai đoạn
phát triển của gia
đình. Khi cấu
trúc tổ chức của gia
đình giữ được
ổn định, trở nên
lành mạnh thì
triệu chứng về tâm
thần,
tình cảm, và
xã hội của một cá
nhân sẽ
thuyên giảm
và phục hồi. Vì
vậy, nhà
tham vấn cần lưu tâm những điểm sau
khi làm việc
với gia
đình:
1.
Làm rõ khái niệm
gia đình là khi gia đình có vấn đề sẽ giúp các thành viên gần gũi,
gắn kết với nhau
hơn,
2.
Xem gia đình cũng là một tiểu hệ thống trong hệ thống xã
hội và
phải xem
xét mối quan
hệ của hệ thống gia
đình với các
hệ thống
khác trong bối
cảnh
chung,
3.
Nhớ về mô
hình thay đổi
mối quan
hệ nhân
quả xoay
vòng khi nghe thân chủ, khi nghe phải nghe
nhiều người,
nhiều quan
điểm khác
nhau và những
quan điểm này
đều thật với người
nói, không phê phán khi nghe các quan điểm khác nhau,
4.
Nêu ra được
một vài
điểm mạnh của mỗi người,
thể hiện sự thân
thiện với tất cả, tuyệt đối
không bè phái,
5.
Năng động, biết ngắt đúng
lúc nếu như tương
tác giữa các
thành viên trở
nên căng thẳng,
6.
Giảm căng
thẳng bằng
cách giao tiếp
trực tiếp với từng
thành viên, thay vì để họ giao tiếp với nhau, sắp xếp ghế ngồi hợp lý,
7.
Giúp mọi người
cùng hiểu vấn đề, hướng
tới những điều mà mọi người
đều quan
tâm,
8.
Không khuyến
kích đổ lỗi và
dán nhãn, và
9.
Nhìn, quan sát tương tác (ai nói đỡ cho
ai, ai kết tội cho
ai, ai đồng
minh với ai).
Nhà trị liệu
(Nhag tham vấn
tâm lý) sẽ
làm gì với một trường
hợp điển cứu sau
đây, sau khi đã học những phương pháp trị liệu gia đình ở trên:
“Một bé
trai 10 tuổi hay
nổi
giận với
mẹ
của
nó. Cậu bé này sống
cùng với cha mẹ
và một đứa
em trong một gia đình. Cậu
bé này hay so sánh, phân bì với những
người bạn
đồng
lứa
về
những gì mà cậu
bé không có. Tâm tính của nó thì rất
bất
thường, lúc thì rất
ngoan, lúc khác thì mắng mỏ,
giận dữ
với
mẹ
mình. Nếu cậu
bé này nhìn thấy người
em họ được ôm một
cái thì nó liền thể
hiện nó muốn
được
ôm 4 cái. Hình như nó chẳng
thích hay muốn bất
kỳ những gì có trong gia đình. Cậu
bé được đưa
đến gặp
một
nhà trị liệu
(NTL) và NTL này khuyên người mẹ
động
viên cậu bé và duy trì tình yêu thương
vô
điều
kiện. Mặc
dù người mẹ
không nói ra rằng bà cảm
thấy lo sợ
cho sự an toàn của
đứa
con thứ 2 vì người
anh của nó luôn có hành vì bất
thường. Người
cha thường hăm he, dọa
bỏ
nhà ra đi vì không khí căng thẳng leo thang trong gia đình. Người
cha là người có tính nóng nảy,
dù không đánh mắng vợ
con nhưng bộc
lộ
sự
khó chịu buồn
phiền khi đứa
con thường xuyên giận
dữ
với
mẹ
nó. Báo cáo cho thấy người
mẹ
đều
chăm sóc yêu thương cả
hai người con. Không có chẩn
đoán gì về những
hành vi của cậu
bé. Quý vị có gợi
ý gì cho trường hợp
này không? – by Laurel.
Tài liệu
tham khảo:
[2] www.genopro.com
[3] relationshipadvicecafe.com
[4] en.wikipedia.org
[5] hes310spring2012group9.pbworks.com
http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/ung-dung-quan-diem-he-thong-trong-lieu-phap-gia-dinh
[6] Bài
giảng tập huấn tại hội thảo về Công
Tác Xã Hội và Sức Khỏe Cộng Đồng tại Trường
Đại Học An
Giang của GS
Susan Newfield (trường Đại học Y) và GS Neal Newfield (trường
Công Tác Xã Hội)
thuộc Đại học West
Virginia, Hoa Kỳ và người dịch Doãn Thị Ngọc-GV
Trường
Đại Học Hoa
Sen.
Không có nhận xét nào: