Tăng Quyền Năng Cho Phụ Nữ
Buổi
tọa đàm “Tăng Quyền Năng Cho Phụ Nữ-Women’s Empowerment” đã diễn ra từ 14h-15h15
ngày 28 tháng 3 năm 2013, tại Trung tâm Hoa Kỳ. Diễn giả là TS. Kathleen
Peoples, viên chức của Lãnh Sự quán thành phố Hồ Chí Minh và nội dung gồm 2
điểm chính: (1) những bước tăng quyền lực của phụ nữ Mỹ và (2) tìm hiểu một số
thông tin về tăng quyền lực của phụ nữ Việt Nam.
Bắt
đầu buổi thuyết trình, TS. Peoples đã dẫn đề bằng một câu hỏi cho khán giả:
“Theo quý vị, thế nào là tăng quyền lực?” Một số các bạn trẻ trả lời tăng quyền
lực có nghĩa là tạo quyền cho cá nhân, hay cá nhân có được tư duy suy nghĩ sáng
tạo, độc lập và cương quyết, hay cá nhân có thể thể hiện ý tưởng của mình và
thuyết phục người khác về quan điểm đó.
Kế
đến, TS. Kathleen Peoples tập trung vào trình bày những bước tăng quyền lực cho
phụ nữ Mỹ. Tăng quyền lực của phụ nữ Mỹ không đương nhiên mà có, mà đòi hỏi rất
nhiều nỗ lực cải tổ từ nhiều phía và nhiều lĩnh vực từ kinh tế-chính trị-đến xã
hội, v.v. để cải thiện tình hình.
Về
mặt lịch sử, mãi đến năm 1920 (có điều bổ sung thứ 19-the 19th Amendment) quyền
bầu cử của phụ nữ Mỹ mới được công nhận và quyền này được thiết lập trên toàn
liên bang. Từ đó, phụ nữ mới được tham gia bồi thẩm đoàn và có quyền sở hữu tài
sản trong vai trò người vợ.
Kể
từ năm 1980 đến nay, xu hướng số nữ cử tri đi bỏ phiếu tăng lên rõ rệt. Tỷ lệ
nữ cử tri tham gia bầu cử đông hơn tỷ lệ nam cử tri trong tất cả các cuộc bầu
cử, ví dụ, cuộc bầu cử năm 2012 cho thấy tỷ lệ cử tri nữ da đen đông hơn tất cả
các nhóm khác. Rõ ràng, để giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử thì ứng cử
viên phải thu hút cử tri nữ và lắng nghe mối quan tâm của họ. Nghiên cứu cũng
chỉ ra rằng những nữ cử tri thường bầu cho những ứng viên khi họ ủng hộ các
chương trình xã hội và chi tiêu trong nước. Ngược lại, những nam cử tri thường
chọn cho những ứng cử viên ưu tiêu về chi tiêu quốc phòng.
Về
việc làm, trước thế kỷ 19 phụ nữ chủ yếu làm những công việc nhà và ở nhà máy,
hoặc được phép làm những công việc viết lách hay giảng dạy. Những nghề nghiệp
như luật sư, bác sĩ, nhà khoa học, …thì không được phép. Khi thế chiến thứ II
xảy ra, nam giới tham gia chiến tuyến và phụ nữ được gọi đi làm để thay thế chỗ
làm của nam giới. Lúc bấy giờ một số phụ nữ gia nhập quân đội, hải quân, và
không quân nhưng không phải để tham chiến mà để làm đầu bếp, thư ký, kế toán.
Trong khi đó những phụ nữ khác đi làm trong các nhà máy dây chuyền công nghiệp,
làm may, và đóng gói hàng hóa.
Khi
chiến tranh kết thúc, phụ nữ được khuyến khích ở nhà làm nội trợ và nhường lại
những công việc của họ cho nam giới. Điều đáng chú ý là sau chiến tranh thế
giới thứ II, kinh tế Mỹ phát triển rất mạnh: nông nghiệp tăng trưởng cao bằng
tất cả các nước Anh, Pháp, Đức, Italia, Nhật cộng lại, còn công nghiệp chiếm
hơn 50% tổng sản phẩm kinh tế thế giới. Lúc đó, nhiều phụ nữ đã rất hài lòng
trở thành người nội trợ đảm đang và được chồng nuôi. Phương tiện truyền thông,
sách báo cũng tăng cường, làm mạnh và làm sâu quan điểm rằng cuộc đời một người
phụ nữ sẽ trọn vẹn khi dành cả cuộc đời để làm nội trợ, làm vợ, làm mẹ, hi sinh
cho chồng cho con thông qua việc mô tả người phụ nữ lý tưởng hạnh phúc khi ở
nhà với các thiết bị hiện đại vây quanh và chờ đợi chồng trở về nhà sau giờ làm
việc.
Về
giáo dục, trong giai đoạn này giáo dục cho trẻ em gái không được chú trọng và
học sinh nữ không nhận được những sự trợ giúp thích đáng. Nghiên cứu cho thấy tỷ
lệ trẻ em gái ở bậc tiểu học cao, nhưng từ cấp II trở đi tỷ lệ bị giảm mạnh vì
thầy cô, cha mẹ, và cả những học sinh nữ này chỉ có một mong ước duy nhất là
con gái tới tuổi phải lấy chồng và kiếm được ông chồng giàu và có chức vụ thì
càng tốt, thay vì đi học để có nghề nghiệp. Ngoài ra, sau thế chiến thứ II vẫn
có nhiều phụ nữ tiếp tục đi làm trong các nhà máy xí nghiệp với đồng lương rẻ
mạt và thường nhận mức lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một loại công
việc khi họ có năng lực và kỹ năng như nhau.
NHỮNG THAY ĐỔI LỚN – MAJOR CHANGES
Vào
thập niên 1950, nhiều phụ nữ Mỹ, đặc biệt là giới phụ nữ da trắng trung lưu trí
thức, đã không hài lòng với lý tưởng hạnh phúc của vai trò làm vợ mà mọi người
đã gán cho đó là một cuộc sống êm đềm, ổn định, chồng có chức vụ, nuôi con
thành tài trong một ngôi nhà đẹp. Họ đã nhận diện và phát triển một ý thức tự
giác về hoàn cảnh sống bao gồm sự lệ thuộc vào đàn ông và những bất công họ
phải đối diện trong việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quyền sinh sản, sự bất
bình đẳng trên thực tế về luật lệ hôn nhân. Cuộc nổi dậy thực sự khơi mào và
sau đó lan tỏa ra toàn xã hội Mỹ lúc bấy giờ là sự ra đời cuốn sách “Sự kỳ diệu
của phụ nữ-The Feminine Mystique” của Betty Friedan xuất bản năm 1963. Cuốn
sách này đã khiến người đọc phải giật mình, đồng thời, châm ngòi cho hoạt động
nữ quyền và thay đổi cách nhìn của thế giới về phụ nữ và hình như những vấn đề
này vẫn còn “nóng” trong xã hội hiện đại.
Friedan
đã viết về những vấn đề của phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung lưu đã trải
nghiệm một cảm giác trống rỗng và vô nghĩa trong cuộc sống. Friedan lý luận
rằng phụ nữ cần phải chủ động, ý thức cao hơn về nhân cách và về quyền tự quyết
đối với chính cuộc đời mình, thay vì chỉ làm “vai trò phụ” cho người khác. Đây
là một đề xuất táo bạo, đòi hỏi mọi người phải lắng nghe, nhưng đề xuất này
cũng bị nhiều người phản đối kịch liệt vì họ sợ những thay đổi lớn và làm bất
ổn gia đình và xã hội. Friedan nói trong đoạn mở đầu cuốn sách như sau [1]:
Đó là một nỗi niềm được chôn giấu, hoàn toàn câm lặng, qua
hàng năm trời trong tâm trí của những người phụ nữ Mỹ. Một chút xáo trộn kỳ lạ,
một cảm giác không thỏa mãn, một khao khát mà phụ nữ trong những năm giữa thế
kỷ 20 ở nước Mỹ đã phải chịu đựng. Mỗi người vợ ở ngoại ô phải đối mặt với nó,
một mình. Mỗi khi chị dọn giường, mua sắm đồ tạp hóa và các vật liệu che phủ,
ăn sandwich bơ lạc với các con, lái xe đưa con đi dự các hoạt động hướng đạo
sinh dành riêng cho nam (Scout Cubs) và nữ (Brownies), nằm cạnh chồng vào mỗi
đêm - chị sợ phải hỏi chính mình câu hỏi câm lặng ấy: “Đời chỉ là thế này thôi
sao?”...Sự thần bí chẳng có gì thần bí, đó là thứ quan niệm cho rằng cuộc đời
một người phụ nữ sẽ trọn vẹn khi người dành cả cuộc đời để làm nội trợ, làm vợ
và làm mẹ. Đó là quan niệm đã kìm giữ nhiều thế hệ phụ nữ trong ngôi nhà đóng
kín, nuôi con, lau dọn không ngừng nghỉ, tự làm mình hài lòng bằng những dụng
cụ. Friedan kêu gọi phụ nữ. Hãy đi làm và ngừng ngay việc coi các trường đại
học là những chợ tình.
Việc
thành lập tổ chức NOW (National Organization for Women) là một phản ứng việc
chính phủ thờ ơ với những đòi hỏi của phụ nữ. Tháng 8 năm 1970, NOW tổ chức một
cuộc biểu tình lớn nhất từ sau 50 năm khi phụ nữ Hoa Kỳ đứng lên đòi quyền được
được bỏ phiếu (Women’s suffrage Movement). Có tới 500.000 phụ nữ tham dự, tạo
sự chú ý rộng rãi đến phong trào phụ nữ khắp nơi. Betty Friedan là chủ tịch đầu
tiên của Hội Phụ nữ NOW, hội hiện có khoảng 500.000 thành viên tại cả 50 tiểu
bang, mà sự khởi đầu là tại căn hộ của bà Friedan [2].
Năm
1963, Ủy Ban Về Địa Vị Của Phụ Nữ (Commission on the Status of Women) đã thực
hiện một cuộc điều tra và đã chứng minh rằng phụ nữ bị phân biệt đối xử ở nơi
làm việc. Vì vậy, Ủy ban này đã đề nghị chính phủ thực hiện những thay đổi về
luật lệ, chính sách để phụ nữ hưởng những điều kiện tuyển dụng công bằng, phụ
nữ vẫn được lãnh lương trong thời gian nghỉ thai sản và được cung cấp các dịch
vụ chăm sóc trẻ với giá cả hợp lý. Đồng thời, chỉnh phủ liên bang đã ban hành
những đạo luật dưới đây để đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ.
- · 1 963: Luật Trả Lương
Như Nhau (The Equal Pay Act of 1963 – EPA) Vào thế kỷ 19 và thế kỷ 20 trong
cùng một công việc thì phụ nữ được trả lương thấp hơn. Điều này dẫn đến việc
thông qua "Đạo luật Trả Lương Như Nhau năm 1963". Tại thời điểm đó, phụ
nữ chỉ nhận được 58 cent so với 1 dollar của một người đàn ông;
- ·
1964: Khoản VII của
Luật Dân Quyền ban hành năm 1964 (Title VII of the Civil Rights Act of 1964)
chống kỳ thị trong việc làm dựa vào giới tính, chủng tộc, màu da, tôn giáo,
hoặc nguồn gốc quốc gia. Tổng thống Johnson đã ký một chính sách yêu cầu phụ nữ
và người dân tộc thiểu số cũng có quyền học hành và làm việc giống như người
đàn ông da trắng, ví dụ phụ nữ và người thiểu số có thể làm việc ở trường học,
đứng tên trên các hợp đồng, và sở hữu các doanh nghiệp;
- ·
1967: chính sách ưu
tiên dành cho phụ nữ, người thiểu số, người tàn tật (Affirmative Action). Ví
dụ, trường đại học cộng điểm ưu tiên cho sinh viên vùng sâu vùng xa, hoặc một
công ty phải nhận một số nhất định người da đen, hay người tàn tật;
- ·
1968 – Các mẫu quảng
cáo tuyển dụng phải trung tính, nghĩa là đòi hỏi các mẩu quảng cáo tìm kiếm
nhân viên không được giới hạn giới tính nam hay nữ.
- ·
1970 – Luật Trả Lương
Như Nhau được cải thiện. Vấn đề trả lương như nhau cho cùng công việc luôn bị vi
phạm. Trong khi các luật của bang và liên bang cấm trả lương khác nhau dựa vào
giới tính thì theo tiền lệ phụ nữ Mỹ vẫn thường bị trả lương thấp hơn nam giới.
Nhưng nghiệp đoàn và các tổ chức về quyền phụ nữ tuyên bố điều này cũng phản
ánh sự phân biệt đối xử công khai và đòi hỏi phải có những giám sát và cải tổ
triệt để.
- ·
1978 – Luật chống phân
biệt đối xử khi mang thai hoặc trong độ tuổi mang thai. Nhà sử dụng lao động
không được sa thải, hoặc từ chối tuyển dụng khi phụ nữ có thai. Phụ nữ mang
thai được nghỉ phép trong thời gian luật định và khi trở lại làm việc không bị
mất việc. Khi phụ nữ đi phỏng vấn mà nhà tuyển dụng hỏi những câu liên quan tới
dự định mang thai của phụ nữ thì được coi là phạm luật…Đấy là những quyền mà
thế hệ trẻ thấy là việc đương nhiên.
Ngoài
ra, phụ nữ Mỹ ngày nay có quyền quyết định nhưng việc quan trọng cho cuộc sống
của mình như: tự quyết định sống độc thân hay lập gia đình; tự quyết định chọn
công việc làm tại nhà hay xa nhà, và tự quyết định chọn lập gia đình có con,
hoặc lập gia đình không có con, hoặc làm mẹ đơn thân.
Theo
TS. Peoples, mặc dù phụ nữ đã đạt được những tiến bộ về bình đẳng giới trong
nhiều lãnh vực nhưng họ vẫn phải đối mặt với nhiều vấn đề như: Bạo lực gia đình
(BLGĐ), bức trần kính (the glass ceiling - nghĩa là phụ nữ gặp những rào cản
trong thăng tiến ở các cấp lãnh đạo, đặc biệt cấp cao trong bộ máy chính trị,
CEO…, về chính sách qui hoạch đào tạo cán bộ, nghỉ hưu sớm), và vai trò kép. Về
BLGĐ, dù tỷ lệ bị bạo hành đã giảm nhưng phụ nữ vẫn bị bạo hành, thống kê cho
thấy cứ 4 phụ nữ thì có 1 phụ nữ bị bạo hành trong đời. Một vấn đề phức tạp nữa
là bức trần kính, trong vài thập niên trở lại đây, phụ nữ tham gia lãnh đạo
ngày càng tăng, đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ trong vai trò quản lý cấp thấp và cấp
trung, nhưng tỷ lệ phụ nữ lãnh đão ở cấp cao như ở quốc hội hay CEO vẫn không
đáng kể và chưa đạt được những dấu ấn cũng như cơ hội bình đẳng để tăng sự hiện
diện của nữ. Theo tổ chức nghiên cứu Catalyst, phụ nữ tại Mỹ chiếm trên một nửa
đội ngũ chuyên gia và quản lý ở cấp thấp, cấp trung của các công ty lớn, nhưng
chỉ có 14% nhà quản lý cấp cao và 3% tổng giám đốc là nữ [3].
Trước
khi kết thúc, buổi tọa đàm tập trung chia sẻ những bước tăng quyền lực của phụ
nữ Việt Nam. Người tham dự chia sẻ và thảo luận những vấn đề bức xúc đang xảy
ra như quấy rối tình dục tại nơi công sở. Theo kết quả điều tra nghiên cứu của
Vụ Bình Đẳng giới Bộ Lao Động-Thương Binh & Xã Hội và Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) cho biết, ở Việt Nam, quấy rối tình dục (QRTD) là vấn đề nhạy cảm và thậm
chí được cho là cấm kỵ nên dễ dẫn đến tâm trang xấu hổ. Nam giới cũng có thể là
nạn nhân của quấy rối tình dục, nhưng phụ nữ bị QRTD là chủ yếu. Nạn nhân
thường ở vị thế thấp, dưới quyền, trong tình trạng phụ thuộc vào người quấy
rối. Cũng theo kết quả nghiên cứu, nạn nhân bị quấy rối thường không dám tố cáo
và âm thầm chịu đựng.
Các
vụ việc QRTD tại nơi làm việc chủ yếu rơi vào hai ngành y tế và giáo dục. Do
chưa có định nghĩa rõ ràng về hành vi quấy rối tình dục nên nạn nhân muốn tố
cáo nhưng không biết nên làm thế nào. Theo các khách thể nữ kể lại họ thường bị
tán tỉnh một cách thô tục hoặc kích dục, đụng chạm thể xác, bị đề nghị quan hệ
tình dục, hay bị cưỡng ép quan hệ tình dục[4].
Kế
đến là những vấn đề chênh lệch tuổi hưu giữa nam và nữ. Hiện tại tuổi hưu của
nữ thấp hơn nam 5 tuổi. Vì vậy, xu hướng tăng tuổi nghỉ hưu là kết quả tất yếu
của quá trình phát triển và tăng cường thúc đẩy bình đẳng giới, bên cạnh sức ép
về cạn kiệt quỹ bảo hiểm xã hội, cũng như việc qui hoạch đào tạo và thăng tiến
của nữ.
Điểm
thảo luận cuối cùng là tứ đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam “công,
dung, ngôn, hạnh”. Đa phần những người tham dự đều cho rằng tứ đức ngày nay
khác với ngày xưa và hòa quyện với những quyền và nghĩa vụ khác. Vì vậy, không
chỉ nữ giới mà cả nam giới ngày nay cũng cần có tứ đức: “công, dung, ngôn,
hạnh” vì bất cứ xã hội tốt đẹp nào cũng có những kỷ cương phù hợp và những
chuẩn mực đạo đức xã hội lành mạnh để phát triển nhân cách.
Cuối cùng, bài viết này sẽ làm rõ hơn khái
niệm về tăng quyền lực (empowerment). Tăng quyền lực là một khái niệm được sử
dụng trong nhiều ngành, bắt đầu từ ngành Công Tác Xã Hội, rồi đến ngành Phát
Triển Cộng Đồng, Giới và Phát triển, Tâm Lý Học, Giáo Dục, Kinh tế, v.v. Vì vậy
tùy theo ngành cụ thể mà khái niệm này được định nghĩa khác nhau cho phù hợp
với bối cảnh, chương trình, hay dự án.
Theo
TS. Thái Thị Ngọc Dư (2004), khái niệm chung nhất về tăng quyền lực là một quá
trình xã hội đa chiều nhằm giúp mọi người, đặc biệt những nhóm thiệt thòi đạt
thêm sự kiểm soát, tham gia và quyết định. Tăng quyền lực là một quá trình thúc
đẩy quyền lực (có nghĩa là, khả năng thực hiện) cả ở bình diện cá nhân lẫn tập
thể bằng cách hành động về các vấn đề mà họ xác định là quan trọng.
Tăng
quyền lực cho phụ nữ cần được xem xét qua các yếu tố sau trong mối liên hệ hỗ
tương:
- Xây dựng ý thức về
tình trạng của phụ nữ, sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ ở mọi lãnh vực, quyền
lợi và cơ hội để tiến tới bình đẳng giới ;
- Nâng cao nhận thức
nhóm sẽ giúp có ý thức về bản sắc của nhóm và khả năng làm việc như một nhóm ;
- Phát triển khả năng và
kỹ năng, đặc biệt là khả năng hoạch định, ra quyết định, tổ chức và quản lý các
hoạt động, giao tiếp với dân chúng và các tổ chức ;
- Tăng cường sự tham gia
và kiểm soát của phụ nữ nhiều hơn, có quyền quyết định cao hơn trong gia đình,
cộng đồng và xã hội.
- Hành động để đem lại bình đẳng nhiều hơn giữa nam và nữ.
Tóm
lại, tăng quyền lực là một quá trình xây dựng nhận thức và khả năng để đi đến
một sự tham gia lớn hơn, quyền quyết định và kiểm soát lớn hơn và đi đến những
hành động để thay đổi tình hình [5].
Doãn Thi Ngọc
Tài liệu tham khảo:
[1] http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-toan-canh/phu-nu-van-con-gian-du-n20130228130428254.htm
[2] http://www.dactrung.com/Bai-bv-2475-Betty_Friedan_Nguoi_dan_Ba_Tien_Phong_Cho_Quyen_Phu_Nu.aspx
[3] http://dantri.com.vn/nghe-nghiep/phu-nu-se-chiem-linh-phong-giam-doc-nhieu-hon-704927.htm
[4] http://dantri.com.vn/xa-hoi/quay-roi-tinh-duc-thuong-xay-ra-o-nganh-y-te-giao-duc-701055.htm
[5]
Thái Thị Ngọc Dư, 2004. Giới và Phát triển. ĐH Mở TPHCM
http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/tang-quyen-luc-cho-phu-nu