Truyền Lửa: Nữ Kiệt Nam Bộ Những Năm 1960s
Ngày
25/4 /2013, Bảo Tàng Phụ Nữ Nam bộ đã tổ chức tọa đàm khoa học về “Chia sẻ những
ký ức về cuộc tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968”. Hội thảo hân hạnh đón
tiếp những nhân chứng lịch sử là những mẹ Việt Nam anh hùng, anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân, những nữ chiến sĩ biệt động, chiến sĩ giao liên,
pháo binh, quân báo, hậu cần đến từ Bến Tre, Long An, Cần Thơ , Sóc
Trăng, Đồng Tháp, và An Giang. Họ là những tấm gương tiêu biểu cho phụ nữ Nam
bộ thành đồng tổ quốc trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
Hội thảo cũng vinh dự đón tiếp sự hiện diện của nhà nghiên cứu đến từ các
trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn ở Hà Nội và Hồ Chí Minh, ĐH Hoa Sen, Viện
Nghiên cứu, Bảo Tàng, Ban Tuyên Giáo các tỉnh ủy, tỉnh hội, thành hội và
quân khu. Hội thảo nhận được 36 tham luận, trong đó 22 tham luận được in vào Kỷ
Yếu và 14 tham luận còn lại đăng trên website của Bảo Tàng Phụ Nữ Nam Bộ.
Mục
đích của buổi tọa đàm là lắng nghe những nhân chứng lịch sử để thu thập
thêm dữ liệu lịch sử và giới thiệu một dự án đầy ý nghĩa mà Bảo tàng Phụ Nữ Nam
Bộ đã thực hiện, đó là xây dựng được một kho tư liệu khoa học về mẹ Việt Nam
anh hùng, lưu giữ lại những di sản văn hóa cho đời sau và góp phần phục vụ công
tác giáo dục truyền thống cho các thế hệ trẻ. Theo thống kê của Bảo tàng, hiện
có tổng cộng 2.086 Mẹ Việt Nam anh hùng ở thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên hiện
tại chỉ còn 165 mẹ còn sống. Bảo tàng đã phải chạy đua với thời gian, bởi các
mẹ Việt Nam anh hùng phần đông tuổi đã cao, sức đã yếu. Chậm ngày nào sẽ mất
mát thêm nhân chứng sống ngày ấy. Qua nửa năm, Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ đã thu
nhận được 1.256 hiện vật, tư liệu và hình ảnh chân dung của 1.824 Mẹ Việt Nam
anh hùng tại TPHCM. Việc bảo lưu và gìn giữ những giá trị truyền thống về các
mẹ là sự tri ân và trân trọng những bản sắc văn hóa dân tộc rất có giá trị xã
hội và nhân văn [2].
Một
nam tham dự viên kể về những gian khổ của các mẹ, các chị khi họ tham gia hoạt
động giao liên, vận chuyển, tình báo trong chiến tranh. Trên đường đi vận
chuyển tiền từ căn cứ ra, họ hồi hộp lo sợ do luôn bị rình rập, bắt bớ, khám
xét kỹ lưỡng bởi công an, cảnh sát. Căng thẳng hơn, nguy hiểm hơn là hoạt động
giải cứu đồng nghiệp. Ví dụ Bà Ba Định, Ba Thọ cùng một số phụ nữ khác tổ chức
từng nhóm để giải vây cho cán bộ lãnh đạo, trong đó có anh Mười Cúc (Nguyên
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh), một cách thành công mà không bị hao tổn về sức
người sức của.
Chúng tôi cũng được nghe Mẹ Lê Thi Điệp, bí danh Thu Hà kể về những chiến công lừng lẫy của đơn vị nữ tỉnh Bến Tre. Vào những năm 60, chưa có đơn vị nữ nào ở phía Nam được thành lập, ngoài trừ tỉnh Bến Tre. Một đơn vị bộ đội nữ ra đời ngày 4/1/1964, gồm 36 chị em tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị, sau đó tăng lên hơn 100 đồng chí. Mẹ Điệp được tỉnh Đội bầu làm đại đội trưởng. Ban đầu, đơn vị hoạt động tập trung và sau đó chia ra làm các tiểu đội và chia ra thành nhiểu mũi tấn công để hỗ trợ các đơn vị khác. Có rất nhiều đồng chí đã hi sinh anh dũng, bị thương, bị giam cầm, và bị đánh đập dã man nhưng không một người phụ nữ nào lung lay ý chí hay phản bội tổ quốc.
Mẹ
Việt Nam anh hùng Phan Thị Hồng ở Vĩnh Long chia sẻ bà rất nhớ đồng đội - những
nữ dân công hỏa tuyến ở Khu Tây Nam Bộ. Nhiều người đồng đội đã hi sinh trong
cuộc Tổng tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Những người còn sống thì đã
già và sức khỏe rất yếu. Gia đình mẹ Hồng có chồng và con trai đều hi sinh
trong chiến tranh. Sự ác liệt của chiến tranh đã để lại cho mẹ nhiều đau thương
và mất mát nhưng cũng tạo cho mẹ sức mạnh phi thường để tham gia chiến tranh và
hoàn thành nhiệm vụ một cách suất sắc. Mẹ Hồng khi đó là giao liên khu Tây Nam
Bộ, đưa đường cho nhiều cán bộ lão thành, trong đó có cố thủ tướng Võ Văn Kiệt,
qua được sự kiểm soát gắt gao của đối phương. Mẹ anh hùng Võ Thị Tâm kể chiến
tranh thành công là do “dân thương, dân đùm bọc, dân cho mình nương tựa. Trong
thời gian ở Sài Gòn, người dân biết Mẹ đang hoạt động cách mạng nên dân đùm
bọc, bao che”. Hơn nữa, trong chiến tranh vai trò nữ văn công rất quan trọng
trong việc động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của bộ đội qua tiếng hát. Dù
đạn bom dữ dội nhưng không thể nào át tiếng hát của họ. Họ không quản ngại mưa
bom lửa đạn đến tận các đơn vị để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần lạc quan cách
mạng cho đồng đội, đồng chí [3].
Một
mẹ chia sẻ về nỗi băn khoăn, trăn trở và đau lòng về một chiến sĩ đã hi sinh
nhưng chưa được ghi nhận về mặt giấy tờ cũng như chưa được công nhận đãi ngộ từ
phía chính quyền. Mẹ đang cùng với các tổ chức tham gia vận động để hỗ trợ gia
đình đồng đội này.
Hội
thảo được nghe chín ý kiến của các mẹ, các chị và các nhà khoa học. Họ chia sẻ
những tình tiết rất xúc động đã diễn ra trên các địa bàn Sài Gòn-Gia Định và
các địa danh ở Nam bộ. Nhiều chi tiết mới, nhiều dữ kiện mới trong các tham
luận đã bổ sung tư liệu cho lịch sử về hoạt động kiên cường, dũng cảm của các
mẹ chị trong các cánh quân, từ tham gia vận chuyển vũ khí, giao liên dẫn đường,
công tác hậu cần, hay trực tiếp chiến đấu trong các mật trận, kể cả mặt trận
trong lao tù. Một số sự kiện về tiểu đoàn Lê Thị Riêng tuy có những đánh giá
khác nhau nhưng nay đã có thêm những nguồn tư liệu quý giá để tiếp tục làm sáng
tỏ. Có rất nhiều tư liệu về sự tích anh hùng về các mẹ, các chị mà chưa có sách
sử nào ghi chép. Đó chính là trách nhiệm của những người làm lịch sử, làm bảo
tàng cần phải tiếp thu, phát huy và làm rạng rỡ những trang sử vàng của phụ nữ
Nam bộ thành đồng
Cuối
cùng, tác giả của bài viết này đã may mắn được nghe trực tiếp những nhân chứng
lịch sử chia sẻ những việc làm cao cả của các thế hệ phụ nữ Miền Nam. Tôi
nghe rất nghẹn ngào và xúc động. Chiến tranh thật ác liệt, các bà mẹ đã không
chỉ hi sinh tuổi thanh xuân mà còn mất mát những người thân yêu quí như người
cha, người chồng, người con, người cháu. Tất cả họ đều hi sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Tôi thầm và mãi mãi cảm ơn họ sâu sắc vì họ đã truyền lửa
cho tôi, giúp tôi có thêm niềm tin và sức mạnh trong cuộc sống, giúp tôi hiểu
biết thêm lịch sử hào hùng của những thế hệ phụ nữ đi trước, đồng thời bản thân
tôi phải có trách nhiệm “uống nước nhớ nguồn”, tiếp tục tiếp bước họ trong việc
giữ gìn, phát huy, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống kiên cường và bất khuất
của phụ nữ hai miền Nam-Bắc cho các thế hệ mai sau.
Doãn Thi Ngọc
Tài liệu tham khảo
[1 http://www.womanmuseum.net/
[2] http://www.womanmuseum.net/me-vn-anh-hung/chan-dung-me-viet-nam-anh-hung-di-san-van-hoa-cho-doi-sau
http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/truyen-lua-nu-kiet-nam-bo-nhung-nam-1960s