Nhân Học Trong Bối Cảnh Toàn Cầu Hóa
Ngày 26 tháng 4 năm 2013, Khoa Nhân Học
thuộc Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn (ĐHKHXH & NV) đã tổ chức
Tọa đàm: “Nhân học trong bối cảnh toàn cầu hóa”. Buổi tọa đàm thu hút sự
hiện diện của nhiều nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài, các giảng viên và sinh
viên của nhiều trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Chủ tọa gồm
Nhà giáo Nhân dân-GSTS. Ngô Văn Lệ, GSTS Lương Văn Hy, và TS Nguyễn Thanh Hà. Mười hai tham luận được báo cáo gồm
·
Tương quan giữa nghiên
cứu Nhân học với Việt Nam học ở Việt Nam
·
Đóng góp của Nhân học
cho phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa
·
Đào tạo và nghiên cứu
Nhân học Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
·
Khoa nhân học trên
đường hội nhập quốc tế: thành tựu và thách thức
·
Toàn cầu hóa tạo những
tiền đề mới cho Nhân học hiện đại
·
Ethno một hướng tiếp
cận của Nhân học dưới góc độ toàn cầu hóa
·
Ethnomusicology – Lịch
sử, nhân vật và tính chất liên ngành
·
Xu hướng phát triển
Nhân học du lịch trong bối cảnh hiện nay
·
Một số ứng dụng điển
hình của Nhân học trong hoạt động kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
·
Người Việt Nam quốc
tế: Có hay không?
·
Thiết lập quan hệ hợp
tác trong hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học
·
Học Nhân học để làm gì
trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay
Theo
GS. Lệ, nhân học là một ngành khoa học về bản chất con người, xã hội con người
và quá khứ con người [1]. Nhân học là một ngành khoa học có mục đích miêu tả
thế nào là con người theo một nghĩa rộng nhất. Nhà nhân học không phải người
duy nhất tập trung sự chú ý của mình vào con người và sản phẩm do con người tạo
ra, mà biết sử dụng những khám phá của những ngành khoa học khác và kết hợp
chúng thành những dữ liệu riêng để tìm hiểu xem những yếu tố sinh học, kinh tế,
chính trị, xã hội, văn học-nghệ thuật, lịch sử, tôn giáo và thân tộc đã tác
động con người ra sao.
GSTS.
Lương Văn Hy cho rằng toàn cầu hóa đã bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước: dòng chảy
người di dân và lao động nô lệ từ Châu Âu và Châu Phi đến Châu Mỹ trong thế kỷ
17, 18, và 19, cùng với hàng hóa như đường, trà, đồ gốm từ Châu Á và Châu Mỹ đã
lưu thông khá mạnh về Châu Âu trong những thế kỷ này, nhưng vài thập kỷ gần dây
dòng dịch chuyển này tăng tóc khá mạnh do sự phát triển của công nghệ thông
tin, kỹ thuật, phương tiện chuyên chở.
Một
mặt, tiến trình toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội, nhưng mặt khác, cũng đưa đến
những thách thức cho tiến trình phát triển ở một quốc gia như Việt Nam. GS Hy
đặt câu hỏi, vậy ngành nhân học có thể đóng góp gì cho sự phát triển của Việt
Nam? Dĩ nhiên là có. Nhưng các nhà làm chính sách, giới trí thức, và xã hội
Việt Nam nói chung, có lẽ chưa hình dung ra câu trả lời rõ ràng cho câu hỏi
trên.
Ngược
lại, ở các nước phương Tây, nhiều người trong xã hội ngay cả những người không
học chuyên ngành nhân học có thể có câu trả lời cho câu hỏi trên. Một minh
chứng cụ thể là có 100 nhà nhân học đang làm tại Ngân hàng thế giới và ông Jim
Young Kim, tiến sĩ về Nhân học làm Chủ tịch Ngân hàng thề giới và ngân hàng này
cũng có tên chính thức nữa là “Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế”
(International Bank for Reconstruction and Development).
GS.
Hy cũng nhấn mạnh khi nói đến ngân hàng thì người Việt nghĩ ngay đến những
người học về tiền tệ, kinh tế-tài chính, hay kinh doanh, nhưng trên thế giới
những nhà kinh tế học chuyên về phát triển đều biết đến đóng góp của nhân học
cho ngân hàng và những vấn đề phát triển. Phát triển không chỉ là tăng của cải
vật chất hay tăng tổng sản phẩm quốc gia, mà còn tăng mức an sinh cho con người
(human welfare). Ví dụ, nếu tăng về của cải vật chất nhưng chi phí cho sức khỏe
cao do ô nhiễm môi trường thì tổng sản lượng chia theo bình quân đầu người có
thể tăng gấp đôi, trong khi đó an sinh không chắc có tăng và trong trường hợp
này thì phát triển có vấn đề. Để phát triển bền vững thì phải quan tâm
đến môi trường sống, y tế, và giáo dục và những người có chuyên ngành nhân học
sẽ cùng chung tay đóng góp.
PGS.TS.
Nguyễn Văn Tiệp bình luận chúng ta đang sống trong thời đại mà quá trình toàn
cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hóa đã tạo cơ
hội cho Việt Nam hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực với quy mô và tốc độ
nhanh hơn. Toàn cầu hóa đã tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập quốc tế song
phương và đa phương về mặt khoa học và đào tạo giữa các trường đại học, mở rộng
và phá vỡ thế cô lập đóng kín trước đây. Bên cạnh đó, một nguồn nhân lực
KHXH&NV quan trọng là các nhà khoa học Việt kiều có tâm huyết với đất nước
nhưng chúng ta chưa có cơ chế và chính sách hợp lý để khai thác. Trong thời
gian tới, cần thể chế hóa thành chính sách để tiếp nhận sự tham gia của các nhà
khoa học này. Xây dựng và phát triển KHXH&NV quả còn nhiều gánh nặng, phải
có những chính sách và cơ chế mới, để có thể thoát khỏi tình trạng trì trệ và
lạc hậu hiện nay. Nhiệm vụ đó, chỉ với sự nỗ lực của bản thân các nhà khoa học
không thể làm được. KHXH&NV đang trông chờ một cơ chế và chính sách mới
trong thời gian tới [2].
Doãn Thi Ngọc
Tài liệu tham khảo:
[1]
Emily A Schultz – Robert H Lavenda, Nhân học một quan điểm về tình trạng nhân
sinh, NXB Chính trị quốc gia, tr.10.
[2] http://giaoduc.edu.vn/news/chuyen-hoc-duong-672/nganh-nhan-hoc-gop-phan-...
http://gas.hoasen.edu.vn/vi/gas-page/nhan-hoc-trong-boi-canh-toan-cau-hoa