Có Gì Sai Không Với Việc Đánh Giá Công Trạng? Tại Sao Đối Xử 'Bình Đẳng' Không Thưởng cho Người Xứng Đáng Nhất
Hình ảnh: shutterstock
Tác
giả/Author: Michelle Smith, Deakin University
Người dịch/Translator: Doãn Thi Ngọc- Lecturer,
Hoa Sen University
Chỉ có một phụ nữ được bổ nhiệm trong tổng
số 19 người thuộc Ban Nội Các của thủ tướng mới của Úc, Tony Abbott. Do đó, các diễn đàn trực tuyến đã sôi sục với cuộc tranh
luận về đại diện giới tính trong nền chính trị liên bang.
Một số lời giải thích đã được đưa ra về lý do tại sao các nữ nghị sĩ Đảng Tự do vẫn chỉ“gõ
cửa” cho các vị trí
trong Nội Các. Tuy nhiên, một số người cũng phủ nhận rằng
không có bất kỳ vấn đề gì với việc tân ngoại trưởng Julie
Bishop là người phụ nữ duy nhất ngồi ghế đầu.
Một trong những lời bào chữa thường xuyên
nhất được viện dẫn để giải thích cho quốc hội Úc là việc có đa số nam giới là do “công
trạng hay thực lực”. Theo logic xứng đáng, một người thể hiện khả năng cao nhất cho một công việc thì một vị trí tại trường đại học hoặc thậm chí một vị trí
trong Nội Các liên bang sẽ được lựa chọn và dành
cho họ, bất kể các yếu tố nào khác.
Điều này nghe có vẻ công bằng trên bề nổi. Một người đã làm
việc chăm chỉ và thể hiện những phẩm chất vượt trội so với tất cả các ứng viên khác thì họsẽ thành công.
Vấn đề cần bàn về ý tưởng xứng đáng ở đây là
nó cho rằng tất cả mọi người đều có cơ hội thành công như nhau.
Phong trào hướng tới bình đẳng chính
thức thông qua luật chống phân biệt đối xử đã tạo ra ấn tượng rằng không
có rào cản nào đối với sự tham gia của phụ nữ, người bản địa, người GLBTIQ, người khuyết tật và người da màu tại nơi làm việc và cuộc sống công cộng.
Ví dụ, Đạo luật phân biệt giới tính của Khối thịnh vượng chung
(1984) đã cấm quảng cáo việc làm cho
“đàn ông”, “con trai”, “phụ nữ” hoặc “con
gái”. Nó quy định rằng phụ nữ không còn được trả mức lương thấp hơn khi thực hiện các nhiệm vụ giống như nam giới và cũng như tìm cách bảo vệ phụ nữ khỏi bị sa thải khi mang thai.
Phép ẩn dụ về một cuộc đua đang chạy thường được sử dụng khi so
sánh các mô hình bình đẳng. Mô
hình chính thức, mà mọi người viện dẫn khi họ thảo luận về giá trị và “người tốt nhất cho công việc”, xem tất cả các đối thủ cạnh tranh ở vị trí của họ trên
cùng một vạch xuất phát.
Nó không cho phép liệu một số vận động viên ẩn dụ này có
thể đã được huấn luyện tại Viện Thể thao Úc với quyền tiếp cận với các huấn luyện viên và
thiết bị ưu tú hay không, trong khi các đối thủ khác có thể đến vạch sau
khi được tự huấn luyện và không có giày chạy bộ để mang. Rõ
ràng, đối thủ thứ hai đang
gặp bất lợi trong cuộc đua
“sòng phẳng” này. Tuy
nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu anh ấy hoặc cô ấy thực sự có tiềm năng trở thành người nhanh nhất nếu được cấp quyền truy cập vào cùng một tài nguyên?
Một ví dụ thực tế về việc mô hình bình đẳng chính
thức thất bại như thế nào là trong trường hợp Người bản địa tham
gia vào giáo dục đại học. Tất cả học sinh trung học Úc đều có cơ hội dự thi Lớp 12 và đăng ký vào đại học. Tuy
nhiên, học sinh bản địa ở các địa điểm xa xôi
nói riêng không có cùng nguồn tài
chính, cơ sở vật chất trường học và hoàn cảnh cộng đồng để hỗ trợ họ trở nên xuất sắc.
Việc áp dụng nghiêm ngặt khái niệm thành tích sẽ không
tính đến những thiệt thòi mà học sinh bản địa gặp phải so với trẻ em nội thành ở các trường tư thục.
Để đạt được sự bình đẳng về kết quả - hay bình đẳng thực chất - chúng
ta phải từ bỏ những quan
niệm về thành
tích, bỏ qua những bất lợi xã hội, và những rào cản có thể ngăn cản các ứng cử viên giỏi ngang
nhau hoặc tốt hơn tham gia cuộc đua. Một số người cho rằng khái niệm đối xử bất bình đẳng thông
qua hạn ngạch, hoặc cơ chế gia nhập đặc biệt là khó
chịu và không công bằng, nhưng điều quan trọng là phải nhận ra sự không công bằng của giả định về một vạch xuất phát bình đẳng vốn có trong khái niệm năng lực.
Khi các trường đại học khuyến khích tuyển sinh
sinh viên Bản địa, ngay cả khi điểm số mà sinh
viên đạt được ở trường không
đáp ứng yêu cầu thông
thường, họ không chỉ đơn giản là phạt những sinh
viên đã thể hiện “năng lực-merit”. Thay vào đó, họ đang làm việc để khắc phục nhược điểm mang tính hệ thống dẫn đến kết quả không bình đẳng (đại diện người bản địa kém
trong giáo dục đại học).
Khi các đảng phái
chính trị hành động để chống lại tình trạng thiếu đại diện của phụ nữ, như trong ví dụ về EMILY's List của nhóm
liên kết với Đảng Lao
động, nhằm tìm cách tăng số lượng ứng cử viên nữ từ năm
1996, hoặc sáng kiến
Foundation 51 đã được đề xuất để phát triển và tuyển dụng những người theo Đảng Tự Do,
không nhất thiết phải là những người đàn ông
“có công trạng” cho các vị trí này,
mà đúng hơn, đó là việc thừa nhận những lý do
văn hóa và xã hội khiến nhiều phụ nữ khó tham
gia chính trị hơn.
Điều đó có
nghĩa là thừa nhận rằng cuộc đua đang chứng kiến hầu hết phụ nữ bắt đầu với một điểm cản rất lớn và một số ứng cử viên “tốt nhất” của chúng tôi thực sự có thể bị giới hạn trong khu vực dành
cho những vị trí này, trừ khi chúng ta hành động để hướng tới sự bình đẳng về kết quả.
Úc là một quốc gia có thiện cảm với khái niệm “fair
go”. Do đó, chúng ta phải nhận ra rằng đạt được vị trí nào đó nhờ vào “bằng khen hay công trạng” không có nghĩa là
không có những ứng cử viên tốt hơn ngoài kia đang bị thiếu đặc quyền và bị thiếu cơ hội tương tự.
Báo The Conversation và tác giả Michelle Smith, Deakin University cho phép Gendertalkviet dịch sang tiếng Việt và đăng toàn
văn. Thay mặt cho, Ban Biên Tập Gender Talk, chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân
thành tới Tác giả và Báo The Conversation cho phép chúng tôi đăng lại bài toàn
văn. Sự đóng góp của Quý Báo The Conversation và tác giả rất quý giá và ý
nghĩa.
This article is
republished from The Conversation under a Creative Commons license. Read
the original article.