Vẻ Đẹp Độc Hại Xưa và Nay

 



Bài Luận Thứ Sáu: Vẻ Đẹp Độc Hại Xưa và Nay

 

Tác giả/Author: Michelle Smith, Deakin University

Người dịch/Translator: Doãn Thi Ngọc, Hoa Sen University

 

Trong suốt chiều dài lịch sử, con người luôn sẵn sàng thử hầu như mọi phương pháp hoặc sản phẩm để cải thiện ngoại hình. Để đáp lại, các công ty và những ông trùm làm đẹp đã thông đồng bán cho chúng ta hầu như mọi thứ — từ nước đến thuốc độc — dưới vỏ bọc là các phương pháp chăm sóc thẩm mỹ. Mặc dù nhiều sản phẩm mỹ phẩm cuối cùng đã chứng minh là có ít hiệu quả, nhưng một số lượng khá lớn cũng đã gây ra tác hại về mặt thể chất và thậm chí tử vong.

 

Ngày nay mỹ phẩm và phẫu thuật thẩm mỹ phải tuân theo các quy định chặt chẽ hơn so với thế kỷ 19, nhưng các loại phấn phủ và kem dưỡng da có chứa chì không phải là hiếm. Tuy nhiên, ngay cả ngày nay những sản phẩm này vẫn có những tác dụng phụ nghiêm trọng và cả nguy cơ tiềm ẩn đáng kể từ các thủ thuật thẩm mỹ.

 

Ví dụ, gần đây có báo cáo rằng điều trị thẩm mỹ như tiêm huyết tương giàu tiểu cầu và chất làm đầy da mặt, đang khiến một số lượng lớn bệnh nhân mắc các bệnh nhiễm trùng, bệnh viêm mãn tính và có khả năng gây biến dạng. Mặc dù các loại thủ thuật không xâm lấn này rất phổ biến, với hơn 1 tỷ đô la chi cho các mũi tiêm thẩm mỹ hàng năm, chỉ riêng tại Úc, nghiên cứu cho thấy gần một phần năm số bệnh nhân có thể gặp phải các biến chứng.

 

Tất nhiên, ngay cả khi được chăm sóc y tế tốt nhất, vẫn có những câu hỏi tiềm ẩn về rủi ro sức khỏe khi sử dụng Botox (Độc tố Botulinum loại A) để chống lại hoặc ngăn ngừa nếp nhăn trên khuôn mặt. Trong khi một số lượng lớn người, chủ yếu là phụ nữ, đã sử dụng Botox và tin rằng nó an toàn), nhưng vào năm 2009, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã thêm một cảnh báo lưu ý rằng Botox "có thể lan ra từ vùng tiêm và gây ra các triệu chứng ngộ độc" như yếu cơ và khó thở.

 

Ngay cả những sản phẩm làm đẹp phổ biến nhất vẫn có những rủi ro tiềm ẩn liên quan đến chúng. Hãy xem xét son môi, được thoa trực tiếp lên lớp da mỏng của môi, dễ dàng nuốt vào trong miệng khi sử dụng và được thoa lại nhiều lần trong ngày. Tuy nhiên, các nhà sản xuất không bắt buộc phải liệt kê chì là một thành phần trong son môi vì nó được coi là chất gây ô nhiễm, nhưng hầu hết son môi đều chứa chì và một số màu có nồng độ chì cao hơn nhiều. Một cuộc thử nghiệm của FDA đối với 400 loại son môi được thực hiện vào năm 2011 cho thấy tất cả đều chứa chì. Tuy nhiên, FDA khuyến cáo rằng mức chì có thể chấp nhận được là 10 phần triệu.

 

Trong cuốn sách Fashion Victims: The Dangers of Dress Past and Present, Alison Matthews David giải thích rằng chì là một thành phần phổ biến trong mỹ phẩm trong nhiều thế kỷ "vì nó làm cho màu sắc đồng đều và mờ đục và tạo ra một 'màu trắng' mong muốn, và chất làm trắng da thể hiện sự tự do khỏi lao động ngoài trời vất vả và sự thuần khiết về chủng tộc".

 

Vào những năm 1860, loại kem dưỡng da mặt của Mỹ có tên là "Bloom of Youth or liquid pearl" của Laird hứa hẹn sẽ giúp làm trắng da, giúp "những phụ nữ bị rám nắng, tàn nhang, da thô ráp hoặc đổi màu". Tuy nhiên, chất làm sáng da này chứa một lượng chì đáng kể đến mức gây ra "chứng rụng cổ tay" hoặc liệt dây thần kinh quay ở một số phụ nữ.

 

Một bàn tay của người phụ nữ đã trở nên "tàn tạ"; hơn nữa một bà nội trợ ở St Louis được ghi nhận là đã chết vì ngộ độc chì sau khi sử dụng Laird trong thời gian dài và một chế phẩm tự chế có chứa "vảy trắng và glycerin".

 

Trong cuốn sách của mình, Matthews David kể lại cách bà mua một hộp phấn phủ cổ điển của Mỹ “Tetlow’s Swan Down” có từ những năm 1870. Nó được tiếp thị là vô hại và được cho là sử dụng bột kẽm oxit làm trắng để thay thế các sản phẩm độc hại phổ biến trước đây như chì, asen và bismuth. Bà đã thử nghiệm bột bằng các phương pháp hiện đại và phát hiện ra rằng nó chứa “một lượng chì đáng kể”, có thể hít phải dưới dạng bụi trong quá trình sử dụng.

 

MỘT LỊCH SỬ ĐEN TỐI

 

Quy định nghiêm ngặt về thuốc và mỹ phẩm được cấp bằng sáng chế không diễn ra mãi cho đến thế kỷ 20. Việc thiếu sự giám sát của chính phủ có nghĩa là các nhà sản xuất có thể đóng chai và bán hầu như bất cứ thứ gì mà không cần phải xác minh tuyên bố của họ, đưa sản phẩm của họ vào thử nghiệm cơ bản có sẵn hoặc dán nhãn rõ ràng các thành phần.

 

Cách chủ yếu mà người tiêu dùng Mỹ và Anh đưa ra quyết định về sản phẩm là dựa trên các tuyên bố được đưa ra và dựa vào danh tiếng được xây dựng trong quảng cáo tạp chí rộng rãi, trở nên phổ biến vào cuối thế kỷ 19. Giai đoạn này cũng chứng kiến ​​mỹ phẩm có thương hiệu nổi lên, với các thương hiệu lâu đời và được quảng cáo tốt, chẳng hạn như Xà phòng Pears, cung cấp một trong số ít chỉ số về chất lượng và độ an toàn có thể xảy ra. Trong khi đó, hầu hết các quảng cáo mỹ phẩm đều nhấn mạnh đến độ tinh khiết và lành mạnh của sản phẩm để tách biệt chúng khỏi các ví dụ nổi tiếng về kem, bột và thuốc nhuộm có hại.

 

 

“Chuyên gia về da người Mỹ nổi tiếng” Anna Ruppert (Shelton) là một ví dụ điển hình về bản chất của quảng cáo sai sự thật về mỹ phẩm và các loại thuốc bổ sung nguy hiểm, nhưng lại được quảng cáo là “tự nhiên” và nói rằng tốt cho sức khỏe trong thời đại này. Trong suốt năm 1891 và 1892, nhiều quảng cáo giả tạo như vậy đã xuất hiện trên các tạp chí dành cho phụ nữ Anh, bao gồm các ấn phẩm chất lượng cao như The Queen, về các bài giảng do một chuyên gia làm đẹp người Mỹ tự xưng có tổ chức tại London.

 

Các quảng cáo đề cập đến cuốn sách của Ruppert về “vẻ đẹp tự nhiên”, cũng như quảng bá nhiều sản phẩm khác nhau bao gồm cả thuốc bổ sung cho da. Thuốc bổ sung đặc trưng này ban đầu được tiếp thị là “Face Bleach” tại Hoa Kỳ, nó khai thác nhu cầu về làn da sáng hơn không chỉ từ phụ nữ da trắng mà còn từ phụ nữ Mỹ gốc Phi. Thuốc bổ sung này được mô tả trong một quảng cáo của Queen là vô hại và vô hình: “Nó không phải là mỹ phẩm vì nó không hiển thị trên khuôn mặt sau khi thoa”.

 

Tuy nhiên, thực tế là sản phẩm thuốc bổ sung này của Ruppert rất nguy hiểm. Sau khi phân tích hóa học, Tạp chí Y khoa Anh đã tiết lộ vào năm 1893 rằng thuốc bổ da có chứa thành phần có hại “chất ăn mòn (bichloride thủy ngân)”, và nó có liên quan đến vụ ngộ độc thủy ngân của một “phụ nữ tên K”. Khi Caroline Rance phát hiện ra, cùng năm đó, Ruppert đã bị truy tố vì vi phạm Đạo luật Dược phẩm Ireland và danh tiếng của bà đã bị hoen ố nghiêm trọng vì điều này.

 

Về mỹ phẩm có nguồn gốc từ các chế phẩm tự chế, với truyền thống lâu đời của phụ nữ tự pha chế các phương thuốc chăm sóc da. Tuy nhiên, lời khuyên và công thức trong các hướng dẫn làm đẹp không đảm bảo an toàn với các chế phẩm tự chế. Một "Đạo Luật về Nghệ thuật Vệ sinh và Mỹ phẩm" của Anh có tựa đề ‘Practice of Perfumery’ từ năm 1870 bao gồm công thức cho một trong những loại kem tẩy lông đầu tiên, poudre subtile. Chẳng hạn các thành phần yêu cầu là nửa ounce "sulfer asen", mặc dù tác giả cảnh báo rằng chế phẩm này "nguy hiểm" và "cần hết sức thận trọng".

 

Những cảnh báo như thế này chỉ ra rằng tác hại của một số sản phẩm mỹ phẩm đã được biết đến rộng rãi. Một hướng dẫn khác, Làm đẹp: Cách để có được và cách để duy trì, từ năm 1885 khuyên độc giả tránh dùng thuốc nhuộm tóc vì chúng "đôi khi gây hại cho sức khỏe; đặc biệt là những loại có chứa chì hoặc thủy ngân và được biết là có thể gây ra bệnh nghiêm trọng". Nỗi sợ thuốc nhuộm có hại này được phản ánh trong nhiều quảng cáo trên tạp chí thời đó với cái tên khác “thuốc phục hồi tóc” hứa hẹn sẽ đưa tóc bạc trở lại màu ban đầu mà không cần dùng đến “thuốc nhuộm”.

 

Các kỹ thuật làm đẹp tự chế nguy hiểm cũng là chủ đề của các cảnh báo. Ví dụ, Toilet Hints, hay Làm Thế Nào Để Duy Trì Sắc Đẹp và Làm Thế Nào Để Có Được Điều Đó’ từ năm 1883 đã khuyên phụ nữ không nên đùa giỡn với việc sử dụng quả Belladonna để làm giãn đồng tử. Việc sử dụng chiết xuất từ ​​quả này có thể gây mờ mắt hoặc thậm chí mù vĩnh viễn nếu sử dụng trong thời gian dài. Hướng dẫn làm đẹp này đưa ra một phương pháp khác, ít nguy hiểm hơn, để thêm sức sống cho đôi mắt: ‘Nếu mắt bạn trông đờ đẫn, hãy uống một ly rượu sâm panh thay vì chạm vào belladonna.’

 

NỀN VĂN HÓA PHÂN BIỆT GIỚI TÍNH

 

Chuyên gia về da bị mất uy tín-Anna Ruppert đã viết trong cuốn A Book of Beauty vào năm 1892 rằng một người phụ nữ không bao giờ có thể bỏ bê vẻ ngoài của mình, vì ngay cả "vẻ đẹp cao quý nhất, nếu không được chăm sóc, sẽ sớm mất đi sức hấp dẫn". Bình luận của bà có một số điểm tương đồng quan trọng với văn hóa làm đẹp ngày nay.

 

Đầu tiên, phụ nữ vẫn là những người chủ yếu tìm đến mỹ phẩm và các thủ thuật thẩm mỹ có rủi ro. Lời khuyên của Ruppert dành cho phụ nữ thời Victoria là việc duy trì vẻ ngoài của mình là rất quan trọng để duy trì một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Quan điểm hậu nữ quyền hiện đại của chúng ta là phụ nữ hiện nay "lựa chọn" tuân theo các chuẩn mực về vẻ đẹp và thời trang.

 

Thứ hai, vẻ đẹp vẫn được hiểu là một quá trình làm việc và duy trì liên tục. Các thủ thuật như Botox có thể được sử dụng trước để ngăn ngừa nếp nhăn và chảy xệ, nhưng cần phải sử dụng liên tục theo thời gian để duy trì hiệu quả.

 

Thứ ba, và quan trọng nhất, việc phân biệt giới tính trong việc sử dụng mỹ phẩm có nghĩa là phụ nữ bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các sản phẩm và quy trình nguy hiểm. Như Matthews David chỉ ra, mỹ phẩm và thuốc nhuộm tiếp tục được quản lý ít nghiêm ngặt hơn so với các sản phẩm như dầu gội và chất khử mùi, thuộc danh mục "chăm sóc cá nhân".

 

Nhiều thế kỷ, thiếu kiểm soát và thái độ bất cẩn đối với thành phần của mỹ phẩm và giờ đây là các thủ thuật thẩm mỹ không xâm lấn, tạo nên một tập hợp các câu chuyện rùng rợn hoặc kỳ dị.

 

Từ mỹ phẩm chứa đầy chì-Bloom of Youth đến chất làm đầy được cung cấp trong điều kiện đáng ngờ, lịch sử nguy hiểm của mỹ phẩm cho chúng ta thấy những tác hại mà phụ nữ phải chịu để đáp ứng kỳ vọng về cái đẹp.

 

Báo The Conversation và tác giả Michelle SmithDeakin University cho phép Gendertalkviet dịch sang tiếng Việt và đăng toàn văn. Thay mặt cho, Ban Biên Tập Gender Talk, chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Tác giả và Báo The Conversation cho phép chúng tôi đăng lại bài toàn văn. Sự đóng góp của Quý Báo The Conversation và tác giả rất quý giá và ý nghĩa. 

Link gốc: https://theconversation.com/friday-essay-toxic-beauty-then-and-now-8426