
Lịch Sử Xấu Xí của Phẫu Thuật Thẩm Mỹ
Bài Luận Thứ Sáu: Lịch Sử Xấu Xí của Phẫu Thuật Thẩm Mỹ
Tác giả/Author: Michelle
Smith, Deakin University
Người dịch/Translator: Doãn Thi Ngọc, Hoa Sen University
Các chương trình truyền hình thực tế như The Swan
và Extreme Makeover về hành trình lột xác dựa trên phẫu thuật thẩm mỹ không phải
là chương trình đầu tiên mang đến cho phụ nữ khả năng cạnh tranh để có cơ hội
trở nên xinh đẹp hơn.
Năm 1924, một quảng cáo cho một cuộc thi trên tờ
New York Daily Mirror đã đặt ra câu hỏi khiếm nhã "Cô gái xấu xí nhất New
York là ai?". Quảng cáo này hứa hẹn với người chiến thắng rằng một bác sĩ
phẫu thuật thẩm mỹ sẽ "biến cô ấy thành một người đẹp". Những người
tham gia được đảm bảo rằng họ sẽ không phải xấu hổ vì bộ phận nghệ thuật của tờ
báo sẽ vẽ "mặt nạ" lên ảnh của họ khi chúng được xuất bản.
Về bản năng, phẫu thuật thẩm mỹ có vẻ là một hiện
tượng trong thời hiện đại. Tuy nhiên, nó đã có lịch sử lâu đời và phức tạp hơn
nhiều so với những gì mà hầu hết mọi người có thể tưởng tượng. Nguồn gốc của nó
một phần nằm ở việc chỉnh sửa các dị tật do giang mai và do các ý tưởng
phân biệt chủng tộc về các đặc điểm "tốt" và đặc điểm khuôn mặt có thể
chấp nhận, hay cũng như bất kỳ ý tưởng thuần túy về tính đối xứng trên khuôn mặt.
Trong nghiên cứu của mình về mối liên hệ giữa vẻ đẹp
với sự phân biệt đối xử và định kiến xã hội, nhà xã hội học Bonnie Berry đã ước
tính rằng khoảng 50% người Mỹ "không hài lòng với ngoại hình của
mình". Berry liên hệ sự phổ biến này với hình ảnh trên phương tiện truyền
thông đại chúng. Tuy nhiên, từ lâu người ta đã bị thúc đẩy bởi các biện pháp phẫu
thuật đau đớn để "sửa chữa" các đặc điểm trên khuôn mặt và các bộ phận
trên cơ thể của họ, thậm chí là trước khi việc sử dụng thuốc gây mê và các
nguyên tắc khử trùng khi phẫu thuật được khám phá ra.
Một số ca phẫu thuật đầu tiên được ghi nhận đã diễn
ra ở Anh và Châu Âu vào thế kỷ 16. "Bác sĩ phẫu thuật cắt tóc" thời
Tudor đã điều trị các vết thương trên khuôn mặt, mà theo nhà sử học y khoa
Margaret Pelling giải thích rằng điều này rất quan trọng trong một nền văn hóa
mà khuôn mặt bị tổn thương hoặc xấu xí được coi là phản ánh bản ngã bên trong của
họ bị biến dạng.
Với nỗi đau và nguy cơ đe dọa tính mạng vốn có
trong bất kỳ loại phẫu thuật nào vào thời điểm đó, các thủ thuật thẩm mỹ thường
chỉ giới hạn ở những trường hợp biến dạng nghiêm trọng và bị kỳ thị,
chẳng hạn như mất mũi do chấn thương hoặc bệnh giang mai dịch tễ.
Những ca ghép vạt cuống mũi đầu tiên để tạo ra những
chiếc mũi mới được thực hiện ở châu Âu vào thế kỷ 16. Một phần da đã được cắt từ
trán, gập xuống và khâu lại, hoặc da sẽ được lấy từ cánh tay của bệnh nhân.
Sau này, một quy trình đã được ghi nhận trong xuất
bản của Iconografia d’anatomia vào năm 1841, và được tái hiện trong Crucial
Interventions của Richard Barnett, cho thấy bệnh nhân với cánh tay giơ lên vẫn
dính chặt vào mặt một cách khủng khiếp trong suốt thời gian vết thương được
lành lại.
Mặc dù các biến dạng khuôn mặt có thể có sự tác động
về mặt xã hội và một số cá nhân tuyệt vọng muốn khắc phục chúng, nhưng mãi cho
đến khi các ca phẫu thuật không còn chịu cảnh đau đớn khủng khiếp và đe dọa
tính mạng nữa thì phẫu thuật thẩm mỹ trở nên phổ biến.
Năm 1846, ca phẫu thuật thường được mô tả là “không
đau” đầu tiên đã được thực hiện bởi nha sĩ người Mỹ William Morton, người đã
tiêm ether cho bệnh nhân. Ether được đưa vào cơ thể bằng cách hít vào qua khăn
tay hoặc ống thổi. Cả hai phương pháp này đều không chính xác, có thể gây quá
liều và tử vong cho bệnh nhân.
Việc loại bỏ trở ngại lớn thứ hai đối với phẫu thuật
thẩm mỹ diễn ra vào những năm 1860. Mô hình phẫu thuật vô trùng của bác sĩ người
Anh Joseph Lister đã được áp dụng ở Pháp, Đức, Áo và Ý, giúp giảm nguy cơ nhiễm
trùng và tử vong.
Đến những năm 1880, với sự tinh tế hơn nữa của thuốc
gây mê, phẫu thuật thẩm mỹ đã trở thành một viễn cảnh tương đối an toàn và
không đau đối với những người khỏe mạnh khi cảm thấy mình không hấp dẫn.
Công ty Derma-Featural đã quảng cáo "phương
pháp điều trị" của mình cho "mũi gù, mũi lõm hoặc mũi có hình dạng xấu",
hay cho tai nhô và cả nếp nhăn ("dấu vết của thời gian") trên tạp chí
World of Dress của Anh vào năm 1901.
Một báo cáo từ một vụ kiện năm 1908 liên quan đến
công ty này cho thấy họ vẫn tiếp tục sử dụng da được lấy từ cánh tay và gắn vào
- cánh tay để phẫu thuật mũi.
Báo cáo cũng đề cập đến phương pháp nâng mũi bằng
“sáp parafin” không phẫu thuật, trong đó sáp nóng, lỏng được tiêm vào mũi và
sau đó được “người thực hiện nắn chỉnh theo hình dạng mong muốn”. Sáp có khả
năng di chuyển đến các bộ phận khác của khuôn mặt và gây biến dạng, hoặc gây ra
“u” hoặc ung thư sáp.
Quảng cáo cho những sản phẩm như Công ty Derma-Featural
rất hiếm có trên các tạp chí dành cho phụ nữ vào đầu thế kỷ 20. Nhưng các quảng
cáo thường xuyên được đăng tải về các thiết bị giả mạo lại hứa hẹn sẽ mang lại
những thay đổi đáng kể cho khuôn mặt và cơ thể và nhấn mạnh sự mong đợi một
cách hợp lý thông qua can thiệp phẫu thuật.
Nhiều mẫu dây đeo cằm và trán, chẳng hạn như thương
hiệu “Ganesh” đã được cấp bằng sáng chế, được quảng cáo là phương tiện để loại
bỏ cằm đôi và nếp nhăn quanh mắt.
Các loại thuốc thu nhỏ ngực và thu nhỏ hông và thu
nhỏ bụng, như Đai làm đẹp vệ sinh J.Z., cũng hứa hẹn những cách không cần phẫu
thuật mà vẫn định hình lại cơ thể như mong muốn.
Tần suất của những quảng cáo này trên các tạp chí
phổ biến đến độ cho thấy việc sử dụng những thiết bị này được xã hội chấp nhận.
So sánh, mỹ phẩm màu như phấn má hồng và kẻ mắt kohl hiếm khi được quảng cáo.
Các quảng cáo về "phấn và sơn" hiện có thường nhấn mạnh vào "vẻ
ngoài tự nhiên" của sản phẩm để tránh bất kỳ mối liên hệ tiêu cực nào giữa
mỹ phẩm và sự giả tạo.
Nguồn gốc chủng tộc của phẫu thuật
thẩm mỹ
Các ca phẫu thuật thẩm mỹ phổ biến nhất được yêu cầu
trước thế kỷ 20 nhằm mục đích chỉnh sửa các đặc điểm như tai, mũi và ngực được
phân loại là "xấu xí" vì chúng không điển hình cho người "da trắng".
Vào thời điểm này, khoa học chủng tộc quan tâm đến
việc "cải thiện" chủng tộc da trắng. Tại Hoa Kỳ, với dân số người nhập
cư Do Thái và Ireland và người Mỹ gốc Phi ngày càng tăng, mũi "pug",
mũi to và mũi tẹt là dấu hiệu của sự khác biệt về chủng tộc và do đó là xấu xí.
Sander L. Gilman cho rằng mối liên hệ "nguyên
thủy" giữa mũi không phải da trắng đã xảy ra "vì mũi quá tẹt có liên
quan đến mũi giang mai di truyền".
Phát hiện của bác sĩ tai mũi họng người Mỹ John
Orlando Roe về phương pháp thực hiện phẫu thuật mũi bên trong mũi mà không để lại
sẹo bên ngoài là một bước phát triển quan trọng vào những năm 1880. Giống như
ngày nay, bệnh nhân muốn có thể “vượt qua” (trong trường hợp này là “trắng”) và
phẫu thuật của họ không bị phát hiện.
Vào năm 2015, 627.165 phụ nữ Mỹ, hay một con số
đáng kinh ngạc là 1/250, đã được cấy ghép ngực. Trong những năm đầu của phẫu
thuật thẩm mỹ, ngực không bao giờ được làm to hơn.
Ngực đóng vai trò lịch sử như một “dấu hiệu chủng tộc”.
Ngực nhỏ, tròn được coi là trẻ trung và kiểm soát tình dục. Ngực lớn hơn, chảy
xệ được coi là “thô sơ” và do đó là dị tật.
Vào thời đại của flapper, vào đầu thế kỷ 20, việc
thu nhỏ ngực là phổ biến. Mãi đến những năm 1950, ngực nhỏ mới trở thành vấn đề
y tế và được coi là khiến phụ nữ không vui.
Quan điểm thay đổi về bộ ngực mong muốn cho thấy
tiêu chuẩn về cái đẹp thay đổi theo thời gian và địa điểm. Cái đẹp từng được
coi là do Chúa ban tặng, tự nhiên hoặc là dấu hiệu của sức khỏe hoặc tính cách
tốt của một người.
Khi vẻ đẹp bắt đầu được hiểu là nằm ngoài bản chất
của mỗi người và có thể thay đổi, nhiều phụ nữ, nói riêng, đã cố gắng cải thiện
ngoại hình của mình thông qua các sản phẩm làm đẹp, và giờ đây họ chuyển sang
phẫu thuật thẩm mỹ.
Như Elizabeth Haiken chỉ ra trong Venus Envy, năm
1921 không chỉ đánh dấu cuộc họp đầu tiên của một hiệp hội chuyên gia phẫu thuật
thẩm mỹ Hoa Kỳ mà còn là cuộc thi Hoa hậu Hoa Kỳ đầu tiên tại Atlantic City. Tất
cả những người vào chung kết đều là người da trắng. Người chiến thắng, Margaret
Gorman, 16 tuổi, thấp hơn so với những người mẫu cao lớn ngày nay với chiều cao
1 mét 55 và số đo vòng ngực của cô nhỏ hơn số đo vòng hông.
Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa xu hướng phẫu thuật
thẩm mỹ và những phẩm chất mà chúng ta coi trọng trong một nền văn hóa, cũng
như những ý tưởng thay đổi về chủng tộc, sức khỏe, tính nữ và lão hóa.
Năm ngoái được một số người trong lĩnh vực này kỷ
niệm là kỷ niệm 100 năm phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại. Bác sĩ người New Zealand
Harold Gillies đã được ca ngợi vì phát minh ra phương pháp ghép vạt cuống trong
Thế chiến thứ nhất để tái tạo khuôn mặt của những người lính bị thương. Tuy
nhiên, như đã được ghi chép lại, các phiên bản thô sơ của kỹ thuật này đã được
sử dụng trong nhiều thế kỷ.
Một câu chuyện đầy cảm hứng như vậy đã che khuất sự
thật rằng phẫu thuật thẩm mỹ hiện đại thực sự ra đời vào cuối thế kỷ 19 và nó liên
quan đến bệnh giang mai và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc cũng như việc tái tạo
mũi và hàm của những anh hùng chiến tranh.
Cộng đồng phẫu thuật – và đó là một cộng đồng, vì
hơn 90% bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ là nam giới – thuận tiện đặt mình vào một lịch
sử bắt đầu bằng việc tái tạo khuôn mặt và triển vọng công việc của những người
bị thương trong chiến tranh.
Trên thực tế, các bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ là công
cụ của những ý thích thay đổi về những gì hấp dẫn. Họ đã giúp mọi người che giấu
hoặc biến đổi các đặc điểm có thể khiến họ nổi bật như một người từng bị bệnh,
khác biệt về mặt dân tộc, "thô sơ", quá nữ tính hoặc quá nam tính.
Những rủi ro tuyệt đối mà mọi người sẵn sàng chấp
nhận để trở nên "bình thường" hoặc thậm chí biến "sự bất hạnh"
của sự xấu xí, như cuộc thi dành cho những cô gái xấu xí nhất đã nói, thành vẻ
đẹp, cho thấy mọi người nội tâm hóa mạnh mẽ như thế nào những ý tưởng về cái đẹp.
Nhìn lại lịch sử xấu xí của phẫu thuật thẩm mỹ sẽ
thúc đẩy chúng ta xem xét đầy đủ hơn về cách mà các chuẩn mực về vẻ đẹp của
chính chúng ta được định hình bởi những định kiến bao gồm cả phân biệt chủng
tộc và phân biệt giới tính.
Báo The
Conversation và tác giả Michelle Smith, Deakin University cho phép Gendertalkviet dịch sang
tiếng Việt và đăng toàn văn. Thay mặt cho, Ban Biên Tập Gender Talk, chúng tôi
xin gửi lời cám ơn chân thành tới Tác giả và Báo The Conversation cho phép
chúng tôi đăng lại bài toàn văn. Sự đóng góp của Quý Báo The Conversation
và tác giả rất quý giá và ý nghĩa.