
Giới và xung đột vũ trang. Phụ nữ là nạn nhân, phụ nữ là tác nhân
Marguerite
Rollinde
Ban nghiên cứu CRESPPA (Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội
và chính trị Paris)
Trung tâm
nghiên cứu Giới, lao động, di dân- Trung tâm nghiên cứu quốc gia CNRS/Đại học
Paris 8/ Đại học Paris 10
Pháp
(Bài này đã được đăng trên tạp chí
điện tử « Aspects », số 4 – 2010)
Người
dịch : Thái thị Ngọc Dư
1. DẪN NHẬP
Phụ nữ có lịch sử riêng của mình
không ? Đó là tiêu đề của bài giảng đầutiên về lịch sử phụ nữ tại một đại
học Pháp ở Jusieu năm 1973, Michelle Perrot đã nhắc lại chi tiết này trong tác
phẩm của bà về lịch sử phụ nữ. Đã cần
phải có thời gian để người ta nghĩ rằng lịch sử không chỉ là lịch sử của nam
giới, rằng phụ nữ cũng có vai trò trong lịch sử, lịch sử các cuộc chiến tranh
trước hết là lịch sử của nam giới, ở đó nữ giới chỉ là nạn nhân, mà ngay ở vị
trí nạn nhân thì cũng chỉ mới đây thôi người ta ngưới ta mới quan tâm đến sự
hành hạ phụ nữ trong bối cảnh chiến tranh. Như Yannick Ripa đã nhấn mạnh, đã
phải cần nhiều thời gian hơn nữa để người ta không còn qui những hành động bạo
lực đối với phụ nữ trong chiến tranh về « một hiện tượng vốn có của hoàn
cảnh chiến tranh vì nó gắn chặt với thân phận con người : thú tính bùng
dậy trong bối cảnh chiến tranh – một lần nữa lại là lối suy nghĩ đặc trưng của
nam giới-.[1].
Những cuộc chiến tranh ngày nay không
chỉ có một mục đích là kiểm soát các vùng lãnh thổ, và những cuộc đối đầu giữa
hai khối ý thức hệ (Đông / Tây) đã nhường chỗ cho những cuộc xung đột mà Samuel
Huntington gọi là « chiến tranh giữa các nền văn minh ». Khái niệm
này được sử dụng để biện minh và làm cơ sở phân tích cho những cuộc xung đột
gắn liền với bối cảnh kinh tế toàn cầu hóa và những tranh chấp để giành quyền
kiểm soát các nguồn tài nguyên thiên nhiên như đầu hỏa, các mỏ khoáng sản, hoặc
kiểm soát những thị trường đem lại nhiều lợi nhuận với những hoạt động mua bán
bất minh như buôn bán ma túy, vũ khí.
Nhưng những khía cạnh gắn liền với
xung đột vũ trang nêu trên không thể che giấu hay đẩy xuống hàng thứ yếu những
hệ quả đối với những diễn biến của các mối quan hệ về giới, đặc biệt là những
tác động đối với phụ nữ, dù đó là những can thiệp vũ trang của nước ngoài,
những cuộc đối đầu giữa nhà nước và nhân dân, hay là chiến tranh giữa các cộng
đồng, bộ tộc, với những lý do có thực hay giả định. Việc phân tích hoàn cảnh và
vai trò của nữ giới trong khi các cuộc chiến đang diễn ra, khi cuộc chiến bắt
đầu cũng như trong các giải pháp chấm dứt chiến tranh, sẽ giúp chúng ta tìm
hiểu sâu hơn về địa vị thực sự của nữ giới và khả năng tác động của họ đối với
những mối quan hệ xã hội chủ đạo trong thời gian chiến tranh. Là nạn nhân hay
tác nhân bị lôi cuốn vào guồng máy chiến tranh quân sự, nữ giới có một vai trò,
tích cực hoặc tiêu cực, họ nắm lấy những cơ hội do cuộc chiến đem lại để thay
đổi địa vị của họ, thậm chí có khi còn làm hại đến những phụ nữ khác ; để
dấn thân vào những hoạt động mới mẻ vì sự sống còn (trường hợp những phụ nữ
góa, bị bỏ rơi, phụ nữ chủ hộ v.v…) hay để thực hiện những những hoạt động có
tác động đối với chính trị (tuần hành vì hòa bình, gặp gỡ những phụ nữ của phe
đối phương).[2].
2. PHỤ NỮ LÀ NHỮNG NẠN NHÂN HÀNG ĐẦU
2.1. Hiếp dâm, một vũ khí chiến tranh
Chính trong thời chiến mà phụ nữ là
những nạn nhân hàng đầu, tất nhiên không chỉ có họ, nhưng phụ nữ là nạn nhân
của nạn hiếp dâm từ những người lính cầm súng. Ngày nay, đặc biệt là từ cuộc
chiến ở Nam Tư cũ và từ cuộc chiến tranh hủy diệt ở Rwanda, các nhà nghiên cứu
bắt đầu chú ý đến tính chất chính trị của hình thức bạo lực này và tìm hiểu
những lý do đã thúc đẩy những người lãnh đạo biến hiếp dâm thành một thứ
« vũ khí chiến tranh » như Véronique Nahoum Grappe đã lên tiếng ngay
từ đầu thập niên 90. Họ tố cáo chủ trương hiếp dâm những phụ nữ của phe đối
phương một cách có hệ thống và có kế hoạch, trong khuôn khổ một cuộc
« tiêu diệt chủng tộc » mà những người lính Serbes đã tham gia,
và ở một mức độ nhẹ hơn là người Croates
ở Bosnie. [3].
Cũng vào thời gian ấy, có
nhiều bài báo được đăng trên báo chí tại Pháp. Đặc biệt là Françoise Héritier
đã phân tích hành vi của những người đàn ông đã tuân theo mệnh lệnh để hiếp dâm
người phụ nữ thuộc về một cộng đồng tôn giáo/văn hóa khác cho đến khi người đàn
bà ấy mang thai : « những người đàn ông này mang một ý nghĩ điên
rồ cho rằng « tinh trùng » chất chứa máu và tôn giáo. Ở đây có cái gì
đó vượt xa hơn bạo lực : tính khí của nam giới có tính chất thống trị và
hàm chứa những nguyên lý về bản sắc »[4].
Như vậy, ngoài sự sỉnhục đối với phụ nữ và đối với những người đàn ông của phe
đối phương phải chứng kiến hành động hiếp dâm này, còn là vấn đề biến thân xác
phụ nữ thành một công cụ « trời cho » để tiếp nhận một dấu vết ô nhục
về bản sắc, những người đàn ông này đã làm cho những phụ nữ nạn nhân trở thành những kẻ nhơ nhớp trước mắt chồng
và cha của họ, họ không còn sự tinh khiết cần thiết để sản sinh nòi giống. Họ
bị ô nhục bởi hành động của kẻ thù, nhất là khi hiếp dâm đã dẫn tới việc mang
thai và sinh con, sự hiện diện của đứa con này lại được kẻ thù xem như chứng cứ
của thế thượng phong về sinh học và di truyền của mình.
Như vậy không phải chỉ vì họ là phụ nữ nên phải chịu những hành
vi bạo lực, mà còn là vì « với tư
cách là phụ nữ, nghĩa là những tác nhân xã hội được gán cho một vai trò xã
hội và một vị trí, thậm chí là một chức năng trong một xã hội nhất định »,
điều này đã khiến Jane Freedman đưa ra khái niệm « sự hành hạ phụ nữ có
tính phân biệt giới » thay cho khái niệm bạo lực đặc thù. Cũng trong dòng
suy nghĩ ấy, mới đây những người tổ chức một hội thảo đã nêu ra mục đích của
hội thảo là « phát triển một cách tiếp cận thực trạng hiếp dâm trong chiến
tranh như là một chủ đề lịch sử ». [5]
Nêu ý tưởng này không phải để đưa chủ đề này lên hàng
những bạo lực tột cùng và bị lãng quên, mà là để tìm hiểu, tự vấn về vị trí của
hành vi này trong các cuộc chiến bằng cách chú ý đến những tác nhân, những hành
động và thời điểm diễn ra hành vi.[6].
2.2. Tàn phá nhà ở, mất không
gian riêng.
Những hình thức khác của bạo
lực tuy không nhắm đến phụ nữ đã đặc biệt tác động đến các mối quan hệ giới. Có
thể kể những cuộc dội bom đã tàn phá làng mạc và đẩy các gia đình vào cảnh màn
trời chiếu đất trong lúc nam giới phải chiến đấungoài mặt trận hoặc trong bưng
biền. Hoặc như việc quận đội Israel tàn phá nhà cửa của người Palestine đã gây
ra những hậu quả cho phụ nữ Palestine, « đẩy họ đi đến những lựa chọn làm
thay đổi nhận thức về mình, thay đổi vai
trò của họ trong gia đình, và trong mọi
trường hợp, đã làm thay đổi mối quan hệ của họ với tập thể và với chính
trị. »[7]. Những
cuộc tàn phá có hệ thống này được xem như là tội ác chiến tranh theo Hiệp định
Genève số 4 ngày 12 / 9 / 1949 về bảo vệ người dân trong thời chiến. Những cuộc
tàn phá nhà cửa trong vùng chiến sự đã
gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đối với phụ nữ: họ phải sống trong
tình trạng mất an ninh, phải đối phó với gánh nặng xây dựng lại nhà ở hoặc phải
di dời đi nơi khác, cố tìm lấy một chỗ trú ngụ và đồng thời phải kiếm ăn, tìm
chỗ giặt giũ, chỗ thay quần áo để đi làm hay đưa con đi học. Quá trình hạ thấp
và gây áp lực sau những tàn phá làm gia
tăng áp lực bên trong các gia đình và « phá vỡ một cách nghiêm trọng những hệ thống hỗ trợ phi chính qui của không
gian ngôi nhà cũ đối với những người xem ngôi nhà của mình là một trong những
nơi có ý nghĩa nhất trong cuộc đời họ - đó là phụ nữ và trẻ em »[8].
3. KHI CHIẾN TRANH TẠO THUẬN LỢI CHO
GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ
3.1. Phụ nữ chủ hộ, trưởng làng
Bên cạnh những hình thức bạo
lực do chiến tranh đã nêu ở trên, cần phải thêm sự kiệt lực của vì phải gia tăng
những hoạt động mưu sinh. Thật vậy, trở thành chủ gia đình trong lúc chồng phải ra
chiến trận, có khi đã bị giết, mất tích hoặc bị đi tù, những phụ nữ này phải
làm tròn trách nhiệm của cả người mẹ lẫn người cha và phải làm nhiều việc để
đáp ứng cho nhu cầu của cả gia đình.
Trong những xã hội mà tính chất phụ quyền còn thống trị và phụ nữ còn gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên thì hoàn cảnh đơn thân
sẽ gia tăng tình trạng nữ hóa nạn nghèo khó và làm nảy sinh những mối quan hệ
quyền lực và loại trừ về mặt xã hội và văn hóa dựa trên cơ sở giới tính.
Nhưng ngược lại, những hoạt động mưu
sinh đầy tính sáng tạo của phụ nữ có khả năng thay đổi không gian kinh tế - xã
hội có tính giới và làm cho họ trở thành những tác nhân trong lãnh vực kinh tế
- xã hội và cả chính trị nữa. Chẳng hạn đó là trường hợp các ủy ban phụ nữ
Palestine,trong các thập niên 70 và 80 dưới sự chiếm đóng của Israel, họ đặc
biệt năng động ở các ngôi làng và trong các trại tị nạn. Tập hợp chung quanh
những dự án như nhà trẻ hay trung tâm y tế, những mạng lưới phụ nữ này quả là
một cơ hội cho một số phụ nữ để đạt một vị trí trong đời sống chính trị của
thôn làng, được thừa nhận là những người lãnh đạo và sau đó có thể đóng vai trò
những người đại diện cho chính quyền Palestine .
Liệu chúng ta có thể nói rằng đối với
những phụ nữ này chiến tranh đã có những ưu điểm hỗ trợ giải phóng phụ nữ hoặc
có tính chất làm suy yếu trật tự đã được thiết lập ? Chúng ta có thể hoài
nghi điều này khi thấy cách mà các tổ chức phi chính phủ có quan hệ với chính
quyền Palestine đã giành quyền kiếm soát những ủy ban phụ nữ tiếp sau quá trình
Oslo, bằng cách yêu cầu phụ nữ hãy rời bỏ môi trường chiến đấu và các hoạt
động xã hội để quay về chỉ để lo bảo vệ những quyền đặc thù của riêng nữ giới.
Nhưng như giảng viên đại học Islah Jahad đã nêu : « Chúng ta không
thể hình dung được bằng cách nào phụ nữ có thể đòi hỏi những quyền lợi xã hội
đối với chính quyền Palestine nếu họ không là một thành phần tham gia cuộc
chiến đầu của dân tộc »[9].
Những tổ chức chính trị Hồi giáo đã hiểu điều đó, đặc biệt là sau biến cố
Intifada lần thứ hai. Sự đàn áp lại một lần nữa buộc phụ nữ phải lo cuộc mưu
sinh cho cả gia đình, tham gia vào các hoạt động cứu thương, giúp đỡ những phụ
nữ nghèo, xây dựng các cơ sở sản xuất. Nhưng trong lúc các lực chượng chính trị
Hồi giáo đi đến những khu vực do các ủy ban phụ nữ chiếm đóng trước đây, thì
các tổ chức phi chính phủ vẫn chưa biết cách thoát ra khỏi công việc của tư vấn
quốc tế khiến họ xa rời xã hội mà họ đang sống.
3.2 Phụ nữ chiến binh
Chiến tranh cũng cung cấp cho nữ giới
những nghề mới như làm việc trong các xưởng sản xuất vũ khí hay làm y tá, cứu
thương ngoài chiến trường, lái xe tải, nữ quân nhân. Người ta cũng thấy nữ
chiến binh chiến đấu cùng nam giới trong các lực lượng kháng chiến. Thật vậy,
nếu phụ nữ thường là nạn nhân chính của những
tác động nguy hại của chiến tranh thì họ cũng có thể tham gia chiến
tranh với vai trò tác nhân như nam giới, có một lich sử như nam giới. Nhưng có
phải vì thế mà chiến tranh qua cách nhìn của nữ giới cũng giống như những gì
nam giới kể về chiến tranh ? Hoàn toàn không chấp nhận quan đểm dựa vào
bản chất sinh học của giới tính để giải thích những khác biệt giữa nam giới và
nữ giới về nhận thức những mức độ tham gia trong hoàn cảnh chiến tranh ;
cũng không thể cho rằng yêu hòa bình là
xu hướng bẩm sinh của phụ nữ.
Quan sát thực tếcho thấy phụ nữ cũng tham gia chiến tranh với tư cách là chiến
binh. Bị tù đày, tra tấn, bị giết như nam giới, phụ nữ cũng bị xem là những
« kẻ khủng bố » khi họ tham gia kháng chiến chống lại chính quyền
trong nước hoặc đoàn quân ngoại xâm. Khi đó họ
lại đối mặt với với những phụ nữ tham
gia quân đội của phe chính quyền. Nếu cả
từ hai phía, phụ nữ quyết định dịch chuyển ranh giới phân định vai trò của nữ
giới và nam giới trong cộng đồng của mình thì không phải khi nào lựa chọn của
họ cũng được dẫn dắt bởi nhận thức về các mối quan hệ thống trị đang định đoạt
thân phận của phụ nữ. Và khi ấy, một cách có ý thức hoặc không, họ biến cuộc
đấu tranh cho các quyền của phụ nữ thành thứ yếu, như là kết quả của của cuộc
đấu tranh chính cho cách mạng hoặc cho đất nước, khi sự tham gia quân đội không
đơn thuần vì lý do kinh tế, như ở Mỹ, hay được xem như là một phương cách hội
nhập vào xã hội cho những phụ nữ nhập cư ; vả lại đối với nam giới cũng
vậy, gia nhập quân đội là một cơ hội để hợp pháp hóa tình trạng của họ.
Khi tham chiến, cũng như nam giới, nữ
chiến binh cũng không ngần ngại giết không chỉ đàn ông mà cả phụ nữ và trẻ em,
họ giết những người đang cản trở bước tiến của cách mạng, của giải phóng dân
tộc hay của cuộc chiến chống khủng bố. Chẳng hạn ở Népal, trong thời gian xung
đột giữa quân đội theo Mao và quân đội hoàng gia trong thập niên 70, rất nhiều
phụ nữ đã tham gia quân đội ở cả hai phe và họ đã không ngần ngại tấn công dân
làng nam cũng như nữ khi những người này làm chậm buốc tiến của họ. Tình hình
tương tự đã diễn ra trong các cuộc giết chóc giữa người Hutus và người Tutsi ở
Rwanda. Nhiều phụ nũ đã tham gia chém giết để bảo vệ bộ tộc của họ đang lâm
nguy, cho dù kẻ thù mà họ giết là láng giềng của họ. Chúng ta cũng có thể nhắc
đến những phụ nữ tham gia quân đội Mỹ đã tích cực tham gia tra tấn tù nhân ở
nhà tù Guantanamo mà họ cho là những kẻ man rợ đang gây nguy hiểm cho nền văn
minh.
Tuy nhiên, dù phụ nữ tham chiến dưới
bất kỳ hình thức nào, thì phương pháp
phân tích giới cho thấy rằng nam giới và nữ giới đã có những « trải
nghiệm khác nhau và không đồng bộ », trong đó vai trò của phụ nữ luôn luôn
lệ thuộc vào vai trò của nam giới và thời hậu chiến thường tái lập lại trật tự
trước chiến tranh. Dù phụ nữ là nạn nhân dân sự, hay đã tham gia vào các cuộc tàn
sát nhân danh quốc gia, dân tộc, bộ tộc, tôn giáo hay một nguyên tắc nào đó,
những người đàn ông chủ xướng đều nhìn về phụ nữ như một bảo đảm cho một bản
sắc đang bị đe dọa và đòi hỏi phụ nữ phải gắn kết vô điều kiện với những giá
trị của cộng đồng và phải gác lại những yêu cầu đặc thù của nữ giới.
Câu chuyện những nữ chiến binh đã
tham gia lực lượng kháng chiến giải phóng Algérie bị đưa trở lại công việc nội
trợ sau khi Algérie giành độc lập là một bằng chứng, cũng như những nữ chiến
binh Nga trong thế chiến thứ hai. Sau khi đã tham gia giai đoạn bi hùng của
cuộc bao vây Stalingrad, họ đã phải đối mặt
với những nghi ngờ của người thân lo lắng về sự chung đụng với nam giới
ở chiến trường, cho rằng họ tham chiến chỉ để tìm ý trung nhân hay các cuộc
phiêu ưu tình cảm. đồng chí của họ cũng ngoảnh mặt vì : « sau khi
chịu đựng những dơ bẩn, chí rận, chết chóc…người ta muốn tìm đến cái gì đẹp đẽ,
rực rỡ. Người ta muốn có những phụ nữ đẹp (…) chúng ta muốn quên đi chiến tranh
và chúng ta cũng quên luôn những phụ nữ của chúng ta »[10].
3. NỮ QUYỀN CHIẾN ĐẤU
Ngày nay, khi mà các cuộc chiến đã
vượt ra ngoài khuôn khổ chiến trường và ngày càng tấn công vào xã hội dân sự,
thì phụ nữ cưỡng lại mệnh lệnh của cộng đồng hay của quốc gia. Một số vẫn kiên
trì đấu tranh trong lãnh vực các quyền của phụ nữ, một số khác dấn thân đấu
tranh cho hòa bình, và cuối cùng có những phụ nữ từ chối tách biệt những mục
tiêu đấu tranh cho nữ quyền khỏi những cuộc đấu tranh chính trị hoặc khỏi bối cảnh kinh tế - xã hội của toàn
cầu hóa.
4.1. Phụ nữ Algérie là con tin của Nhà Nước và của các nhóm
vũ trang
Năm 1997, ở Algérie, ủy ban phối hợp
quốc gia, được thành lập ngày 1 / 12 / 1989 qui tụ những tổ chức phụ nữ
Algérie, đã ra một thỉnh nguyện thư. Tuy không yêu sách đến độ đòi hủy bỏ luật
gia đình, thỉnh nguyện thư kêu gọi « thương thảo lại quyền của phụ nữ
trong gia đình ». Nhựng vào giai đoạn đó, người ta lại viện dẫn các vụ ám
sát trí thức và các cuộc tàn sát toàn bộ nhiều ngôi làng để thúc đẩy các tổ
chức hội gây ra chiến dịch này phải im lời yêu sách. Cũng như trong chiến tranh
giải phóng, trong những năm đầu độc lập, những cuộc đấu tranh cho quyền của phụ
nữ bị hoãn lại sau độc lập, sau chiến thắng của cách mạng, rồi sau khi tiêu
diệt được những kẻ khủng bố hoặc được cho là như vậy.
Phải chờ đến khi bạo lực lan tràn ra
khắp xã hội thì lúc đó chính nghĩa của phụ nữ mới được trưng ra như một cái cớ
để biện minh cho việc ngưng quá trình bầu cử và việc dùng biện pháp bắt bớ, bắt
cóc hoặc làm cho mất tích. Lúc đó, phụ nữ bị yêu cầu phải xác định chỗ đứng của
mình giữa quân đội và các nhóm vũ trang (GIA : groupes d’intervention armée).
Có những phụ nữ chọn ủng hộ Nhà Nước vì Nhà Nước hứa hẹn bảo đảm an ninh và tự
do cho phụ nữ, và hoãn lại việc thực hiện hoài bão của mình về một thế giới
được xây dựng trên nền tảng luật pháp và công bằng, thậm chí họ còn nhắm mắt
làm ngơ trước những cuộc đàn áp đối phương, trong đó có phụ nữ và trẻ em. Những
phụ nữ khác vẫn tiếp tục đấu tranh và từ chối sử dụng chủ trương có tính thiên
vị liên quan đến sự tôn trọng quyền con người. Họ là luât sư, những người đấu
tranh cho quyền con người, trí thức, nhà báo, và có cả những nữ công dân bình
thường. Trên mặt trận này, phụ nữ lại ở hàng tiên phong.
Cái giá phải trả là phải quên đi
những năm tháng đen tối tiếp theo sau khi ngưng quá trình bầu cử năm 1992. Một
số phụ nữ không sẵn sàng để trả giá. Đó là những người vợ, những bà mẹ tập hợp
trong các tổ chức tập thể các gia đình, họ đã quyết định đưa vấn đề
« những người mất tích » lên chương trình nghị sự của diễn đàn chính trị
quốc gia và quốc tế.Hầu hết những phụ nữ này không có kiến thức về chính trị,
không biết những hoạt động của chồng, con hoặc anh em của họ, nhưng họ cảm thấy
việc bắt cóc những người thân của họ là bất công, là một hàng động bạo lực
không gì có thể biện minh. Điều mà các đảng phái đã có đặc quyền không muốn
nghe nói đến, nhân danh sự đoàn kết dân tộc, những giá trị dân chủ hay cuộc
chiến chống khủng bố. Những phụ nữ này đã đặt Nhà Nước trước trách nhiệm của
mình và làm suy giảm những xác tín của Nhà Nước bằng cách phá vỡ sự im lặng mà
họ đã chấp nhận trước đó. Từ đó họ trở thành những chủ thể chính trị.
Vì những phụ nữ này tố cáo quan điểm
của Nhà Nước, Nhà Nước sẽ làm cho họ sợ
hãi, bằng cách đe dọa sẽ đàn áp họ, hoặc thuyết phục họ im lặng nhân danh lợi
ích tối thượng của quốc gia, bằng cách công bố luật hòa hợp dân sự năm 2000.
Nhà Nước cũng tìm cách thương lượng cái giá của sự im lặng của những phụ nữ
này, và nhất là tạo ra sự đối đầu giữa
các nạn nhân, « mất tích » chống lại « khủng bố »,
« Hồi giáo »chống lại « dân chủ », nhưng dần dần hình thành
những liên minh giữa các bà mẹ của những người « mất tích » và các
gia đình nạn nhân của khủng bố.
Chính như thế mà vào ngày 20 tháng
tám năm 2005, một thông cáo chung của các tổ chức hội những nạn nhân khủng bố và
gia đình những người « mất tích » ở Algérie đã kêu gọi nêu lên sự
thật vế tất cả các hồ sơ. Các tổ chức này viết rằng : « Không
được xem yêu sách về công bằng là ý muốn trả thù, mà là một lời kêu gọi của xã
hội để từ nay không để cho sự thiếu
trừng phạt tiếp tục bảo vệ những thủ phạm của tội ác. Đó là một nghĩa vụ của
hiện tại để trong tương lai những ký ức chung này sẽ ngăn cản được những hành
động sai lệch như vậy »[11].
Như vậy, những gia đình khởi xướng
phong trào này đã xây dựng những không gian mới để đấu tranh chống lại sự thiếu
trừng phạt, buộc các đảng phái và các tổ chức phi chính phủ phải đầu tư cho vấn
đề này và biến nó thành một vấn đề chính trị quan trọng. Nhưng xa hơn yêu sách
về sự thật và công lý cho chính những người con của họ, họ đấu tranh để những
thảm kịch như vậy không lập lại nữa, bằng cách dùng văn hóa đối thoại và hòa
bình để chống lại văn hóa bạo lực và chiến tranh. Ngày nay, cuộc chiến đấu của
họ đã vượt ra khỏi biên giới Algérie ; họ liên kết với các tổ chức phụ nữ
khác, những người này cũng như họ đã bước ra ngoài xã hội để đòi áp đặt thế
giới quan của mình.
4.2. Phụ nữ chống
chiến tranh ở Israel và Palestine
4.2.1. Hãy chấm dứt sự chiếm
đóng
Trong số những phụ nữ, có thể kể tổ
chức Những phụ nữ mặc áo đen, được thành lập năm 1988 tại Israel trong thời kỳ
Intifada thứ hai, sau đó phong trào này đã đạt tầm mức quốc tế, nhất là ở Serbia
và Kosovo. Đó là một nhóm phụ nữ Israel, họ tụ họp mỗi ngày thứ sáu, mặc áo
đen, lúc đầu họ tập họp ở Jerusalem, sau
lan ra các thành phố lớn của Israel, họp trong yên lặng và dưới những biểu ngữ
chỉ có một khẩu hiệu «Hãy chấm dứt chiếm đóng Palestine ». Phương thức
phản kháng của họ đã tạo ra một khoảng không gian có tính tượng trưng, nơi mà
họ xoay vòng không mệt mỏi, nơi mà một mẫu phụ nữ mới trong chính trị tham gia
hành động, tương tự như hình ảnh các bà mẹ ở quảng trường tháng năm ở Argentine
hoặc như tập thể các gia đình có ngưới mất tích ở Algérie sau này. Năm 1993, trong phong trào Intifada lần thứ
hai, một số phụ nữ đã quyết định di chuyển nơi tụ họp từ Jerusalem đến
Beethleem ở Cisjordanie, từ đó xuất hiện tổ chức Mahsom Watch.Những phụ nữ này tập hợp trước các chốt kiểm soát (mahsom) để canh chừng các binh lính và
cố gắng hạn chế những hành động xúc phạm đến nhân phẩm, có khi nguy hại đến cả
tính mạng của người Palestine khi họ phải đi qua những chốt kiểm soát cố
định hoặc di động giữa Isrel và các vùng bị chiếm đóng và cả những chốt ngay
bên trong các vùng này. Người ta tìm thấy trong hai phong trào này những người,những
người thuộc nhiều xu hướng chính trị khác nhau : chống chủ nghĩa phục quốc
Do Thái, theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái cánh tả, vô chính phủ,
cộng sản , thành viên của những phong trào đòi quyền dân sự, một vài nhà
nữ quyền, một số khác lại không chấp nhận tên gọi này ; phần lớn không có
màu sắc tôn giáo, gốc ashkenaze (ND :thành
viên của cộng đồng Do Thái ở các quốc gia châu Âu không thuộc Địa Trung hải),
có bằng cấp và đang có một nghề chuyên môn và thường dấn thân chính trị ở mức độ cao. Hình thức hoạt động là những
cuộc biểu tình im lặng phản đối sự chiếm đóng. Ngoài yêu sách tối thiểu là « Chấm dứt chiếm
đóng », những phụ nữ này không xác
định những phương thức cần có trong các cuộc thương thuyết cho mục tiêu trên,
họ cũng không thắc mắc về những lý do khác nhau đã khiến mọi người ủng hộ yêu
sách này. Một phụ nữ đã lý giải cho sự có mặt của mình như
sau : « Tôi tham gia biểu tình vì các con trai tôi (để cho chúng
khỏi phải thi hành nghĩa vụ quân sự trong vùng chiếm đóng). Tôi thì có liên
quan gì đến việc phụ nữ có mặt tại đây vì chủ nghĩa nữ quyền (…) hay một phụ nữ khác yêu những người
Palestine vì họ cũng là những con người và có cuộc sống như chúng ta. Tôi không
quan tâm đến lý do tại sao những phụ nữ này lại có mặt ở đó. Lý do là tôi không
hề tự đặt ra câu hỏi ấy.[12].
Một số khẩu hiệu khác nhằm đòi hỏi phải có những cuộc thương thảo vì hòa bình
hoặc ùng hộ cho chủ trường « hai quốc gia hai dân tộc » thỉnh thoảng
xuất hiện nhưng đóng vai trò thứ yếu trong các cuộc phản khàng sự chiếm đóng.
Những phụ nữ này gây sức ép cho trật
tự chính trị - xã hội và trật tự giới : họ chiếm quảng trường, mà lại là
chiều thứ sáu, lúc mọi người bữa ăn tối cho ngày nghỉ sabbat (ND : ngày nghỉ trong đạo Do Thái, tương đương với
ngày chủ nhật), họ hành động như những phụ nữ « hư hỏng « và
không có tôn giáo. Khi thoát ra khỏi vai trò truyền thống của phụ nữ Do Thái
sống dưới sự kiểm soát của những ông chồng, thì với thái độ và những đòi hỏi
của mình, những phụ nữ này đã đặt lại vấn đề bản sắc dân tộc của Do Thái đặt
trên nền tảng là sự thống nhất của dân tộc, lãnh thổ và tôn giáo. Do phụ nữ có yêu
cầu nêu lên ý kiến của mình về các vấn đề hóa bình và an ninh « với tư
cách là những công dân ngang hàng với nam giới –chứ không phải như người mẹ
hoặc vợ của chiến sĩ »[13],
họ làm đảo lộn trật tự đã được an bài và họ muốn trở thành một lực lượng những
tác nhân chính trị độc lập. Về mặt này, họ khác với những tập thể các bà mẹ mà sự phản kháng của
những bà này được xem như sự mở rộng vai trò truyền thống của phụ nữ ra ngoài
phạm vi gia đình, ngay cả khi họ không tuân thủ những ranh giới giữa không gian
riêng tư và công cộng để tác động lên chương trình nghị sự chính trị của các
quốc gia.
4.2.2. Vấn đề sống còn, khẳng
định chiến đấu hay mong muốn hòa bình ?
Sự khẳng định với tư cách là phụ nữ trong một xã hội đang có chiến tranh
không hoàn toàn đương nhiên và việc huy động những phụ nữ này chống lại sự
chiếm đóng có liên quan, ít nhất là trong giai đoạn đầu, đến ước muốn được sống
hòa bình trong xã hội của họ hơn là một ý thức rõ ràng về sự áp bức mà phụ nữ
Palestine phải gánh chịu. Tương tự, nếu những hoạt động của Mahsom Watch đôi
lúc giúp cho việc băng qua các chốt kiểm soát có tính nhân văn hơn thì những hoạt động này
cũng không tố cáo một cách rõ ràng sự tồn tại của những chốt kiểm soát này. Khi
làm cho những chốt kiểm soát này trở nên
dễ chấp nhận hơn, thì mối nguy là họ sẽ có được những điều kiện để tự mình vi
phạm và một cách vô ý thức sẽ hành động đi ngược lại mục tiêu là đòi hỏi chấm
dứt chiếm đóng. Mặt khác, vì chỉ giới hạn vào mục tiêu này, họ cũng quên không
đặt câu hỏi về những vấn đề như : các mối quan giữa các giai tầng xã hội
giứa người Do Thái (Juifs) và người Do Thái gốc Ả Rập, người Do Thái thuộc các giáo phái sépharade và
ashkénaze ; vấn đề nhà nước hợp pháp hoá những trào lưu tôn giáo cực đoan ;
về mối quan hệ giữa bạo lực quân sự, bạo lực tôn giáo.
và bạo lực chống lại phụ nữ, giữa
bạo hành gia đình và bạo lực ở nơi công cộng. Một tổ chức khác là hội Beit Shalom (Những cô gái hòa bình) có
các văn phòng ở Jerusalem đã mở cửa tiếp nhận những phụ nữ Palestine ở Israel,
cho dù họ chỉ chiếm một phần tư của tổng số phụ nữ. Hội này tỏ ý muốn hợp tác với
một hội gồm những phụ nữ Palestine ở đông Jerusalem, Trung tâm phụ nữ Jerusalem (Jerusalem
Center for women), trên cơ sở lập
trường nữ quyền, với tư cách là những nạn nhân của hệ thống gia trưởng phụ
quyền được xây dựng trên nền tảng tôn giáo, dù đó là Hồi giáo, Do Thái giáo hay
Thiên Chúa giáo, hay với tư cách là nạn nhân chiến tranh. Điều này là hiển
nhiên đối với đối với phụ nữ Palestine trong vùng bị chiếm đóng, họ không được
tiếp cận với y tế, giáo dục, hoặc cả nhà ở khi nhà của họ đã bị tàn phá ;
nhưng những phụ nữ của hội Beit Shalom cho rằng bản thân họ cũng có thể mất tất
cả nếu cuộc chiến kéo dài, lúc đó ngân sách dành ưu tiên cho quân đội còn giáo
dục là thứ yếu, an ninh là ưu tiên so với vấn đề quyền của phụ nữ trong chương
trình nghị sự chính trị của lãnh đạo. Đó là chưa kể đến nỗi đau mất con ngoài chiến trường và
những tác động lên trạng thái tâm thần của cả một thế hệ trẻ được giáo dục bằng
bạo lực.
4.2.3. Một bạo lực bất cân xứng : « chiếm đóng là
hiếp dâm »
Nhưng cuộc đối thoại sẽ rất khó khăn nếu dựa trên những cơ sở như vậy, vì
chúng không chú ý đầy đủ đến tính bất cân xứng trong tình trạng của mỗi bên.
Đối với những phụ nữ của tổ chức Jerusalem Center for Women, không thể nói đến
sự áp bức có phân biệt giới tính mà không nói đến xâm chiếm thuộc địa như là
một sự hiếp dâm : « Theo quan điểm của tôi, nếu các vị lên án hiếp
dâm thì các vị cũng phải lên án sự xâm chiếm lãnh thổ vì chính nó là một sự
hiếp dâm »[14]. Vấn đề không phải là
không thừa nhận những hành vị bạo lực đối với phụ nữ hay xem đó là một vấn đề
thứ yếu, mà là cần suy nghĩ về những phương thức hành động có quan tâm đến hoàn
cảnh đặc thù là sự chiếm đóng. Phải cọ xát với bạo lực mà các nữ chiến binh Israel nhắm đến đàn ông
cũng như phụ nữ ở những chốt kiểm soát, thì
làm sao những phụ nữ Palestine lại có thể thấy
nợi những phụ nữ trong các phong trào chống chiếm đóng những người bạn gái đồng hành cùng chia sẻ hoàn
cảnh của mình ? Đối với một bên, sự dấn thân có nghĩa là tham gia chiến
đấu và là một vấn đề sống còn, còn với bên kia, động cơ lại là tính đạo đức và
mong muốn hoà bình. Việc cùng gắn bó với nữ quyền không đủ để đưa họ về cùng
một phe trên bàn thương thuyết. Những hạn chế này đưa trở lại vấn đề chia rẽ
giưa các tầng lớp phụ nữ mà triết gia Rada
Ivekovich đã nêu ra : « Sự lệ thuộc phổ biến của phụ nữ đối với nam
giới không xoá nhoà thực trạng là có sự chia rẽ giữa phụ nữ với nhau và họ
không là một khối chính trị thuần nhất (…). Họ thật sự bị chia rẽ bởi tầng lớp
xã hội, đẳng cấp, chủng tộc, dân tộc. Sự chia rẽ giữa phụ nữ thành những thành
phần dân tộc hay thành phần giới tính là
một phần của hệ thống nam giới thống trị và là công cụ chiến lược tinh vi, vì
nó bảo đảm sẽ chống lại mọi phản kháng có yếu tố giới của phụ nữ » »[15].
4.2.4. Hiếu biết người khác là điều tiên quyết của đối thoại
Sự vượt qua ranh giới chia rẽ phụ nữ của hai nước Israel và Palestine
trước hết đòi hỏi phụ nữ Israel phải thừa nhận thực trạng chiếm đóng và những
tác động của nó đối với phụ nữ Palestine. Điều đó cũng có nghĩa là thông qua sự
hiếu biết ngưới khác. Phụ nữ Israel mong chờ phụ nữ Palestine hiêu rằng sự dấn
thân của họ cho hoà bình là vô cùng khó khăn trong bối cảnh một xã hội đang
sống trong nỗi sợ mất con trong chiến tranh hay trong những cuộc ám sát cảm
tử ; rằng họ đã đau khổ biết chừng nào vì đang thuộc về dân tộc của những
kẻ đi chiếm đóng. Những phụ nữ Palestine thì đang chờ đợi phụ nữ Israel chuyển thông
điệp những yêu sách về công bằng và chấm dứt chiếm đóng cho dân chúng và lãnh
đạo Israel.
Chính
những gặp gỡ thường ngày của phụ nữ ở hai phía sẽ xoá dần đi những trở ngại của
sự hợp tác giữa hai bên cho một mục tiêu chung, trong lòng những phong trào phụ
nữ hay những phong trào hỗn hợp chẳng hạn như phong trào « Những người vô
chính phủ chống lại bức tường » qui tụ nam nữ thanh niên Israel, phần lớn
ở độ tuổi từ 20 đến 30, từ năm 2003 họ đã làm việc sát cánh với các uỷ ban nhân
dân các làng thôn Palestine. Tương tự, « hội những gia đình để tang cho
hoà bình » đã nối kết những gia đình Israel và Palestine. Một trong những người sáng lập
tổ chức này về phía Israel là bà Nurit Peled, một giáo sư đại học Israel có một
người con gái bị giết trong một cuộc ám sát khủng bố. Trong bài diễn văn của bà
nhân kỷ niệm 20 năm tổ chức « Những phụ nữ mặc áo đen », bà đã tán
thán hành động của những trong tổ chức này vì « bản thân hành động là sự
chối bỏ nền giáo dục kỳ thị chủng tộc và sự đầu độc liên tục và có hệ thống trí
não ở trường học,trong truyền thông và trong những phát biểu của những người
đại diện cho nhân dân »[16].
Mặt khác, bà vạch rõ những bà mẹ Israel
hôm nay ẩn mình đàng sau vai trò người mẹ anh hùng và đau khổ đã không
muốn thừa nhận rằng « những kẻ giết trẻ em, tàn phá nhà cửa, phá bỏ vườn
cây ô liu, bỏ chất độc vào giếng nước chính là những đứa con trai, con gái
tuyệt vời của họ chứ không phải ai khác , những đứa con đã được giáo dục trong
nhiều năm ở nơi đây, trong nhà trường của thù hận và kỳ thị chủng tộc ».
Với những lời phát biều ấy, bà đã đặt lại vấn đề về mối liện hệ của mình với
một cộng đồng, một dân tộc được định
nghĩa là dân tộc hẹp hòi và kỳ thị chủng tộc đối với Kẻ khác, kẻ thù, dân tộc Ả
Rập mà họ cần tiêu diệt : « Chữ « chúng ta » của tôi
bao gồm tất cả những người sẵn sàng chiến đấu để bảo toàn tính mạng và cứu cho
con cái khỏi chết. Đó là những bà mẹ ông cha không hề
thấy được an ủi trước cái chết của những đưa trẻ khác ».
5. NHỮNG NHÀ NỮ QUYỀN VÌ HÒA BÌNH
5.1. Tiến đến việc giải quyết xung đột
5.1.1. Những phụ nữ ủng hộ
thương lượng
Một khi người phụ nữ của một bên được
thừa nhận thì có khả năng giao dịch được với những phụ nữ của phía bên kia (đối
phương) để cùng tìm một tiếng nói chung hướng đến đến hòa bình và dân chủ cho
mọi người, nam cũng như nữ, xuất phát từ một kinh nghiệm chung là kinh nghiệm
của những phụ nữ bị trói buộc trong các mối quan hệ thống trị / bị trị do chính
cộng đồng của họ áp đặt. Cùng nhau hợp lực thì những phụ nữ này có tiếng nói có
trọng lượng trong việc giải quyết xung đột cho dù
sự tham gia của họ vào quá trình thương lượng vẫn còn là hy hữu do phụ
nữ chỉ có một địa vị thứ yếu trong hầu hết các cộng đồng xã hội trên thế giới.
May thay đó lại là ý nghĩa của nghị
quyết 1325 của Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về phụ nữ, , hòa bình và an ninh được thông qua vào tháng
10 năm 2000 và Ủy ban về quyền của phụ nữ của Quốc hội Liên minh châu Âu dự
kiến rằng phụ nữ sẽ là một bộ phận tham gia các cuộc thương thuyết. Đó cũng là
mục tiêu cho năm 2005 của Ủy ban Phụ nữ quốc tế vì một nền hòa bình công bằng
và bền vững cho Israel và Palestine (IWC), Ủy ban này muốn tham gia một cách
bình đẳng với nam giới vào việc phòng ngừa và tìm giải pháp cho các cuộc xung
đột cũng như củng cố hòa bình.
Công việc của Ủy ban này được thực
hiện trong những điều kiện vô cùng khó khăn. Các thành viên thường phải gặp
nhau ở nước ngoài vì phụ nữ Palestine không được phép đến Jérusalem. Nhưng đối
với Samia Bamieh, một trong những sáng
lập viên của ủy ban, thì vai trò của ủy ban là thiết yếu : « Đã
đến lúc phải có một mục tiêu chính trị chung để huy động mọi người từ cả hai
phía.
Cũng đã đến lúc phụ nữ chúng ta phải
trực tiếp ngồi vào bàn thương thuyết và những quan điểm của phụ nữ phải thực sự
được chú trọng : người ta nói về nước hay về vấn đề biên giới, thị phụ nữ
đều liên quan ».[17].
Tầm quan trọng của Ủy ban này xuất
phát từ chỗ là ủy ban không phải là một nhóm đối thoại mà ủy ban đã có những
tuyên bố do tất cả phụ nữ tham gia xây dựng nên, họ có cùng tiếng nói và gửi
những thông điệp của mình cùng lúc cho cả hai cộng đồng Israel và Palestine.
Với hành động này, họ không chỉ giới hạn vào những hành động phản kháng trong
im lặng, bởi vì họ tin rằng chỉ có cách đầu tư vào lãnh vực chính trị mới thúc
đẩy được tiến trình hòa bình và như vậy sẽ tiến đến bình đẳng, sự hòa hợp và
công bằng trong xã hội Israel cũng như Palestine. Nhưng ở đây cũng vậy, con đường còn dài, vì
không phải chỉ cần mở ra ra một cuộc đối thoại công khai giữa hai nhóm là đủ,
nếu tất cả các tiếng nói không có khả năng lên tiếng và được lắng nghe một cách
bình đẳng và nhất là nếu trước đó không thực hiện việc thừa nhận những bất công
đã phạm phải.
5.1.2. Phụ nữ dấn thân với tư
cách là chủ thể
Điều gắn kết những phụ nữ này trước
hết sự nhận thức về khả năng tàn phá của mọi hình thức bạo lực đối với xã hội.
Ngoài ra còn có ý là họ có thể cùng nhau thay đối vận mệnh của bản thân họ
thông qua việc tác động lên xã hội và tầng lớp lãnh đạo. Từ đó, trong khi đấu
tranh cho hòa bình, họ cũng đấu tranh cho quyền được sống như những chủ thể
toàn vẹn. Những người mẹ Algérie đã hiểu điều đó khi họ quyết định chống lại
Nhà nước bằng cách cùng nhau, những bà
mẹ có con mất tích và những bà mẹ nạn nhân của khủng bố, yêu cầu sự thật và
công bằng cho con của họ. Tiến trình tương tự cũng đã diễn ra với Ủy ban những
bà mẹ binh sĩ Nga, thành lập năm 1989 để tố cáo những sự đối xử tồi tệ và những
hành vi tội ác mà nạn nhân là những thanh niên trong quân ngũ. Năm 1944, họ đã
khởi động một một hoạt động ủng hộ hòa bình và đòi hỏi sự thật về những người
con đã chết trên chiến trường hay « mất tích » ở Tchetchenia và ủng
hộ những người lính từ chối đi phục vụ ở Tchetchenia. Một năm sau, họ trực tiếp
liên lạc với chính phủ lưu vong Techetchenia ở Luân Đôn và bắt đầu các cuộc
thương thuyết, và vào tháng hai năm 2005 họ đã đi đến kết quả là ra một văn bản
chung lên án những vi phạm quyền con người và những hành động khủng bố.
5.2. Đạo đức bất bạo động của những
người theo nữ quyền
5.2.1. Không sinh con cho chiến tranh
Một cách triệt để hơn, phụ nữ Colombia đã tiến hành những hoạt động trong thập niên 1990. « Con đường hòa bình của phụ nữ cho cuộc thương thuyết chính trị về xung đột » có mục tiêu thương thuyết chấm dứt xung đột ở Colombia bằng cách làm rõ hơn những tác hại của chiến tranh đối với phụ nữ. Những người lãnh đạo của tổ chức Con Đường tuyên bố vì hòa bình, chống quân sự và muốn xây dựng một đạo đức bất bạo động dựa trên những nguyên tắc công bằng, bình đẳng, tự chủ, tự do và thừa nhận người khác. Họ kêu gọi phi quân sự hóa đời sống dân sự dù bất cứ chuyện gì xảy ra, ngay cả với lý do đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Sự chọn lựa là một phong trào phụ nữ có cơ sở lập luận vững chắc cả về mặt chính trị lẫn lý thuyết. Vấn đề không phải là loại trừ nam giới mà là loại trừ cách xây dựng phong trào đấu tranh dựa trên những quan niệm gia trưởng của nam giới, ngược lại với nhiều phong trào khác chấp nhận cả nam lẫn nữ. Họ dùng một chiến lược nhanh chóng biến thành một khẩu hiệu : Chúng tôi không sinh con trai cũng không sinh con gái cho chiến tranh.
Từ chối sinh con cho chiến tranh. Từ chối
có bạn tình là những người đàn ông cầm vũ khí : « Nếu muốn, phụ nữ
chúng tôi có thể chấm dứt chiến tranh. Cho dù vũ khí có sức mạnh. Đơn giản là
chúng tôi có thể từ chối có quan hệ tình dục với những người đàng ông có trang
bị vũ khí, chúng tôi từ chối sinh con cho họ »[18].
Một cuộc tuần hành khác vào tháng năm năm 2000 đã qui
tụ phụ nữ của Libéria, Sierra Leone và Guinée. Họ tuần hành và cùng nhau cầu
nguyện từ nhà thờ hoặc thánh đường Hồi giáo và tập trung lại ở một vùng biên
giới giữa ba nước để chống lại việc buôn lậu ma túy, kim cương và vũ khí đã tác
hại đến ba nước, với quan điểm vượt lên trên lợi ích quốc gia. Họ cùng nhau thành
lập những nhóm can thiệp nhắm đến những
cơ quan cao nhất của chính phủ, với tư cách là phụ nữ, sức mạnh của họ đến từ
sự đoàn kết. Cùng lúc, họ đã đi thực tế trong vùng để hướng dẫn phụ nữ theo dõi
và phòng chống những hoạt động vận chuyển vũ khí và ma
túy : « Hòa bình bắt đầu
từ trong nhà. Chúng tôi có năng lực hòa giải xã hội ». Những lập trường
này hoàn toàn nêu rõ khái niệm « sự liên tục của bạo lực » mà Cynthia
Cockburn đã nêu ra. Tác giả này cho rằng không thể tách rời bạo lực chiến tranh
với những bạo lực trước và sau chiến tranh và bạo lực này có nguồn gốc từ trong
gia đình là nơi lan truyền bạo lực qua
phụ nữ trong một nền văn hóa nam giới thống trị.
5.2.2. Chiến tranh giữa các nền văn minh, giữa
các giai tầng xã hội, giữa hai giới tính
Trong bối
cảnh này, phụ nữ lấy trách nhiệm, trước tiên là trong gia đình, sau đó là trong
xã hội, đứng về phía đối lập trước những áp đặt của quốc gia hay của cộng đồng.
Đó chính là phương hướng của tập thể Code Pink[19] từ năm 2002
đã qui tụ những phụ nữ Mỹ từ chối giữ im lặng trước những nỗi đau của nhiều trẻ em và phụ nữ trong các cuộc
chiến do chính phủ nước họ tiến hành ở Irak hay ở Afghanistan, họ tố cáo những
chi tiêu khổng lồ cho trang bị vũ khí của Mỹ, gây thiệt thòi cho ngân sách xây
dựng trường học hay bệnh viện, họ lên tiếng báo động về ảnh hưởng của chiến
tranh đối với thế hệ trẻ của cả hai phía, họ nhắc lại tình trạng của thanh niên
Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Những thanh niên này ra đi với lòng hăng hái và niềm
tin ngây thơ để sau đó trở về Mỹ đắm chìm trong địa ngục của ma túy và bạo lực.
Đối với những phụ nữ Mỹ trong phong trào này, một cách tiếp cận các cuộc xung
đột theo quan điểm nữ quyền không thể tách rời với sự phân tích chống kỳ thị
chủng tộc và phân tích giai tầng xã hội, nhất là khi tham chiếu những kẻ hưởng
lợi thực sự từ chiến tranh như các tập đoàn dầu khí, buôn bán vũ khí, tập đoàn
xây dựng để tái thiết đất nước đã bị tàn phá.
Đó cũng là ý nghĩa của cuộc tuần hành
thế giới của phụ nữ mà hiến chương đã được thông qua ở Kigali (Rwanda) ngày 10
tháng 12 năm 2004, hiến chương này tuyên bố rằng những hệ thống này « tăng
cường lẫn nhau. Những hệ thống này đã mọc rễ sâu và liên kết với sự kỳ thị
chủng tộc, phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính, kỳ thị phụ nữ, kỳ thị người
nước ngoài, chủ nghĩa thực dân, nạn nô lệ, công việc khổ sai. Những hệ thống
này dọn đường cho những nhóm tôn giáo cực đoan ngăn cản nữ giới và nam giới trở
thành những con người tự do. Những hệ thống này sản sinh ra nghèo đói, sự loại
trừ, vi phạm quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ, và đưa nhân loại
đến tình trạng hiểm nguy « [20].
6. LỜI KẾT
Bối cảnh khác nhau, mức độ huy động
và ý thức cũng vậy ; một số phụ nữ
hành động trong không gian quen thuộc hàng ngày, những phụ nữ khác lại
hành động trong bối cảnh toàn cầu hóa ; nhưng điều liên kết tất cả những
phụ nữ này lại là họ từ chối vai trò truyền thống của họ và tấn công vào mọi
hình thức áp bức , dù đó là quốc gia, dân tộc, xã hội hay kinh tế , và họ muốn
thoát ra khỏi cái khung đã áp đặt cho họ. Trong một diễn tiến không phải do tự
nhiên mà do kinh nghiệm bị áp bức mà họ có được nhờ giáo dục và nhờ các mối
quan hệ xã hội, họ đã ý thức rằng đứng trước bạo lực của các nhóm vũ trang cũng
như của sự đàn áp của chính phủ, họ cần phải tìm một lời đáp khác. Họ đã thí
nghiệm việc tự do lựa chọn và quyết định
và phác họa một cách vô ý thức những con
đường cho một nến văn hóa mới, một nền văn hóa không chỉ hài lòng với việc định
nghĩa các quyền của mỗi người, nam và nữ, mà nó còn vượt ra ngoài biên giới
đang ngăn cách các quốc gia, các cộng đồng, nam giới và nữ giới, và nền văn hóa
ấy gắn các cuộc đầu tranh nữ quyền vào khuôn khổ của sự từ chối một thế giới do
nam giới thống trị và điều khiển được xác định là hệ thống đàn áp nữ giới.
[1] Ripa, Y., « Bạo
lực và chiến lược chống phụ nữ trong nội chiến ở Tây Ban Nha », trong Veauvy,
C. Rollinde M<arguerite, M và Azzoug, M., Phụ nữ ở Nam Âu và ở Bắc Phi. Giữa
bạo lực và chiến lược vì tự do.
[2] Vấn đề này sẽ
là nội dung của một cuộc họp về chủ đề « Giới và xung đột vũ trang
trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trường hợp nước Cộng hòa Dân chủ Congo
(RDC) » tháng 12/2009 o83
Kisangani, do CEP và CR DG của Đại học Kinsha sa và trung tâm CRSPPA-GTM (CNRS-ĐH
Paris 8) và CERASA (ĐH Paris 8) đồng tổ
chức.
[3] Tham khảo những tác
phẩm khác của cùng tác giả,Nahoum Grappe, V. (chủ biên.), « Vukovar,
Sarajevo…. Chiến tranh ở Nam Tư cũ », Paris, Tạp chí Esprit, 1993 ; hay « Chiến tranh và sự khác biệt giới : những hành bđộng hiếp dâm có hệ
thống (Nam Tư cũ, , 1991-1995) », trong
Dauphin, C., Farge, A. (chủ biên), Về
bạo lực và phụ nữ, Paris, Albin,, 1997, 201 trang. Khái niệm « hiếp dâm vù
khí của chiến tranh » cũng là chủ đề của một báo cáo của một nhóm nghiên
cứu để tham gia vào nghị quyết của một
hội nghị của UNESCO tháng 11 / 1993.
[4] Héritier-Augé, F., Le
Monde, 6/4/ 1993.
[5] Freedman, J., « Dẫn
nhập», trong Freedman, J.bàt
Valluy, J. (chủ biên.), Hành hạ phụ nữ.
Kiến thức, huy động và bảo vệ, Paris, éd. du croquant, coll. Terra, nov.2007,
639 p.13.
[6] Branche, R., Virgili, F. (coo), “Hiếp dâm trong
thời chiến Một câu chuyện cần được viết », Hội thảo quốc tế, Paris I
Panthéon-Sorbonne, 11 và 12/5/ 2009.
[7] Shalhoub-Kevorkian, N.,
« Tàn phá nhà cửa : một cách tiếp cận nữ quyền Palestine », www.topicsandroses.com, 2007, bản gốc tiếng Anh tháng 3/2006 trên trang web
của Jerusalem Center for Women, www.j-c-w.org
[8] Ibid.
[9] Jahad, I., « Giữa
chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa Hồi giáo », phỏng vấn
Etienne, M., Cho Palestine, tạp chí AFPS (Association France Palestine
Solidarité), n°45 tháng 4/ 2005, có thể
tham khảo trên www.france-palestine.org
[10] Alexievitch, S., Chiến
tranh không có gương mặt phụ nữ, Paris, Nxb. J’ai lu, 2005 (xuất bản lần đầu
bằng tiếng Pháp , Presse de la Renaissance, 2004), tr.113.
[11] Để có thêm thông tin về vấn đề này, tham khảo M., « Sáng tạo lại la chính sách hoặc để
mất dấu vết của những ngưới mất tích. Những tập thể gia đình tại các nước ở Bắc
Phi », trong Phụ nữ ở Nam Âu và Bắc Phị, sđd, tr. 361-371
[12] Helman, S. et Rapoport,
T., « Những phụ nữ mặc áo đen : sự phản kháng trật tự Israel »,
trong Cahiers du Genre, n°37, 2004,
pp.193-221.
[13] Helman, S. et Rapoport,
T., sđd, tr..215.
[14] Nashashibi, R., « Bạo
lực chống lại phụ nữ: sự tưởng đồng giữa chiếm đóng và hiếp dâm. Trường
hợp Palestine »,The case of the Palestinian people”, Palestinian conseling
center, Jerusalem, 2004, xuát bản bằng tiếng Ả Rập và tiếng Anh trên www.pcc-jer.org
[15]
Ivekovic,R., Giới tính của quốc gia , Paris, Nxb Léo Scheer, [Tiểu luận/ Không
và Không], 2003, tr. 112-113.
[16] Peled-Elhanan, N., « Ở quốc gia
Israel, người mẹ Do Thái đang biến mất », phát biểu ngày 28/12/2007 ở
quảng trường Paris,, Jérusalem, và được Alternative Information Center in Jerusalem đăng lại trong www.alternativenews.org.
Nữ tác giả là thánh viên sáng lập tổ chức “Những gia đình
để tang vì hòa bình”, và là giáo sư đại học. par the (traduit en français par Bruno Adjignon). L’auteure est la
fondatrice de l’Association des Familles Endeuillées pour
[17] Bamieh, S. « Phụ
nữ chống lại quyền lực quân sự », Tạp chí của BDIC, Tháng 9/ 2008, tr.6 và 7.
[18] Cockburn, C., sđd, tr..21
:
[19]
Xem trang web www.codepink4peace.org
và Cockburn, C., sđd, tr.64
[20]
Hiến chương thế giới của phụ nữ cho nhân loại, 10/ 12/ 2004, Kigali, www.marchemondialedesfemmes.org