TỪ “NỤ TẦM XUÂN….” ĐẾN “TIẾC CHO CẢ MỘT GIỚI”
Năm
nay kỷ niệm đúng 100 năm Ngày Quốc Tế Phụ Nữ.
Ngày
19 tháng ba năm 1911, hơn một triệu người, hầu hết là phụ nữ ở bốn nước châu Âu
(Đức, Áo, Thụy sĩ và Đan mạch) đã “xuống đường” tại nhiều thành phố lớn nhỏ đòi
quyền được đi học, đi làm, đi bầu, được giữ chức vụ trong chính quyền, và chống
đối lại những đạo luật kỳ thị phụ nữ.
Đến năm 1913, trước khi thế chiến thứ Nhất bùng nổ, phụ nữ lại biểu tình
vào ngày 8 tháng 3 chống chiến tranh, và từ đó ngày này đã thành Ngày Quốc Tế
Phụ Nữ (NQTPN.)
Về
quan điểm chính trị, NQTPN do phe Xã hội chủ nghĩa (Socialist) Âu châu đề
xướng, nên một số nước tư bản như Mỹ lúc đầu đã không “mặn nồng” lắm với ngày này; họ chú trọng hơn về ngày lễ các Bà
Mẹ vào tháng năm. Cũng tương tự như Ngày
Lao Động QT, 1 tháng 5 không được hưởng ứng nhiều ở Mỹ vì Mỹ chọn ngày thứ hai
đầu tháng 9 làm Ngày Lễ Lao Động.
Ở
Việt Nam ta, NQTPN chỉ là một trong nhiều ngày mà hàng năm các bậc tu mi nam tử
cần phải để ý kẻo không lại bị coi là thiếu “nhạy cảm.” Nhiều ông còn than phiền là họ không được xã
hội “tôn trọng” bằng phụ nữ.
Thật
ra thì các ông không cần phải bận tâm lắm, vì trong xã hội này, nam giới vẫn
còn nắm hầu hết mọi lợi thế. Vào dịp Tết
hàng năm, bói cũng không ra được gia đình nào về ăn Tết bên quê ngoại ngày mùng
một. Trong gia đình, hầu hết các việc
nội trợ --từ chăm sóc con cái hoặc bố mẹ
già ốm, đến nấu nướng, giặt giũ, quét dọn… có thể nói đến 90% vẫn còn là “việc
các bà.” Ngoài xã hội, vẫn còn rất ít
phụ nữ làm chủ, làm giám đốc, làm thủ trưởng … mặc dù phụ nữ chiếm đa số trong
lao động. Cho đến nay, vẫn chưa có tôn
giáo lớn nào cho phụ nữ tham gia vào hàng giáo phẩm chứ đừng nói là lên đến
chức vị lãnh đạo.
Văn
hóa và truyền thống “khinh nữ” này không hẳn là của người Việt nguyên thủy, mà
là văn hóa Khổng tử do người Hán áp đặt vào nước ta từ thời họ đô hộ ta. Nếu ta nhìn xa hơn về quá khứ, thời mẹ Âu Cơ
và bố Lạc Long, thì văn hóa người Việt bình đẳng hơn nhiều. Khi bố mẹ chia tay nhau vì biết rằng không
thể sống với nhau mãi mãi, hai người chia nhau 100 đứa con hết sức đồng đều: mẹ
dẫn 50 lên núi và bây giờ là những dân tộc anh em; bố đưa 50 xuống đồng bằng mà
người Kinh chúng ta là hậu duệ. Không
cần phải có máy tính và cũng không cần phải có luật gia đình như bây giờ mới
biết cư xử với nhau cho bình đẳng và có tình nghĩa.
Sau
hơn 2.000 năm thấm nhuần văn hóa Khổng tử, cũng không lạ gì khi nhiều người
Việt ta lầm tưởng rằng văn hóa Việt phát nguồn từ văn hóa Trung quốc. Không biết bao nhiêu lần tôi đã phải “chỉnh”
các cô, cậu làm hướng dẫn viên du lịch khi họ khẳng định với du khách như thế.
Sang
đến thế kỷ 21 rồi nhưng dân ta, dân Tàu, dân Ấn … vẫn còn “trọng nam khinh
nữ”đến nỗi sẵn sàng phá thai nữ nhi để rồi “làm lại” với hy vọng sẽ được con
trai. Không mấy ai đi chùa, nhà thờ cầu
xin được con gái. Và với phương tiện y
khoa ngày càng tiến bộ, không ít người đã phá thai khi biết bào thai là nữ
giới. Vì thế, tỷ số các trẻ em sơ sinh
hiện nay đã chênh lệch đáng kể : khoảng
115 nam với 100 nữ ngay ở Việt Nam.
Trong
thực tế, xã hội ngày nay cũng đang chuyển hướng rất nhanh về bình đẳng
giới: chỉ 100 năm trước thôi, rất ít phụ
nữ ở bất cứ nước nào được đi học và đa số vẫn còn mù chữ. Sang đầu thế kỷ 21 này, tình trạng đã thay
đổi hẳn: ở Mỹ, con số nữ sinh viên học đại học đã vượt xa số sinh viên nam; mỗi
năm nhiều nữ sinh viên tốt nghiệp hơn nam vì họ học nhanh hơn nam; và trong
nhiều nghề “tiêu biểu” như luật, y, nha ngày nay số sinh viên nữ tốt
nghiệp cũng đã gần ngang bằng với nam.
Ở
Việt Nam cũng thế. Từ khi chữ quốc ngữ
trở thành chữ chính thức của ta năm 1919 và nhất là sau đó trong cuộc cách mạng
dành độc lập Bác Hồ đã chú trọng đặc biệt đến bình dân học vụ để dạy quốc ngữ
cho toàn dân, cả nam lẫn nữ ở nước ta đã mau chóng học đọc và viết. Ngày nay, Việt Nam đã thành công vẻ vang về
mặt xóa nạn mù chữ trong nước: 95 – 97% dân ta biết đọc, viết. Song song vào đó, tỷ số nam/nữ đang theo học
bậc đại học cũng không khác với ở Mỹ bao nhiêu.
Cái
khả năng “tiềm ẩn” của phụ nữ Việt quả thật không phải là nhỏ; nhưng nó vẫn chỉ
là “tiềm ẩn”. Một trong những lí do mà
chị em Việt vẫn chưa đạt được bình đẳng với nam giới ở các địa vị then chốt
trong xã hội có lẽ là cái bệnh lấy chồng sớm.
Tuần
lễ trước Tết, lên chợ Bưởi sắm hoa, tôi gặp một cô bạn trẻ trong ngành truyền
thông, rất thông minh, linh động, và đầy triển vọng. Tôi thường nghĩ biết đâu một cô như thế này
sễ làm tổng giám đốc truyền hình VN một ngày gần đây. Hay biết mấy.
Cô bạn này báo tin mừng là sắp làm đám cưới. Sau khi chúc mừng cô ta cho phải phép tôi
nhìn thấy mấy bó tầm xuân nhuộm mầu xanh, đỏ, vàng… Tôi vẫn nghĩ tầm xuân phải “xanh biếc” như
trong câu ca dao… và liên tưởng ngay đến câu thứ hai về việc cô bạn trẻ sắp lấy
chồng .. “anh tiếc lắm thay.”
Và
nghĩ cũng tiếc thật. Không phải trong
cái nghĩa thường tình của câu ca dao về một mối tình không thành tựu vì chàng
trai đã “không hỏi những ngày em còn không”; nhưng trong một bối cảnh lớn hơn
của đa số phụ nữ Việt.
Xã
hội ta vẫn còn khắt khe về tuổi nào người con gái phải lấy chồng, không thì bị
chê là “ế.” Trong qua khứ, cuộc đời
người ngắn ngủi… 50, 60 tuổi đã là “già” và người phụ nữ thật sự lệ thuộc vào
nhà chồng để có chỗ nương tựa. Ngày nay,
rất nhiều phụ nữ học không kém gì nam giới, làm việc hiệu quả hơn nam giới, và
họ có thể sống đến 90 hay 100 tuổi cũng không có gì lạ. Họ có cái khả năng tự lập về mặt kinh tế,
công ăn việc làm, sức khỏe mà các thế hệ trước chưa khi nào dám mơ tưởng đến.
Thế
nhưng trong xã hội ta ngày nay, phụ nữ vẫn phải lấy chồng khoảng từ 20 đến 25
để “được giá”, và về cuối đời làm việc, vẫn phải về hưu trước nam giới 5
năm. Thế là phụ nữ Việt bị “chiếu tướng”
ở cả hai đầu.
Lúc
còn trẻ, khi đang còn phải phấn đấu mạnh để đạt được kinh nghiệm, khả năng, và
cơ hội tiến thân trong nghề nghiệp thì lại vướng vào việc phục vụ chồng, con,
và có khi cả đại gia đình nữa. Trong khi
nam giới cùng lứa tuổi được tự do tung hoành, móc nối với những liên hệ nghề
nghiệp cần thiết để tiến thân… thậm chí cả đến những quyết định quan trọng cho
cả gia đình như đổi việc, đổi nhiệm sở, có khi còn đi làm ở nước ngoài cho thêm
kinh nghiệm nữa… thì các cô, các bà vợ trẻ bị hạn chế về những giao tiếp
hoặc những cơ hội này.
Ở
Mỹ, trong vấn đề nghề nghiệp, hoặc tiến thân, người ta hay dùng câu tục ngữ
“it’s not what you know, but who you know”. Tạm dịch là “những gì bạn biết
không quan trọng bằng những ai bạn quen.”
Tôi nghĩ ở Việt Nam chắc cũng không khác lắm. Và như vậy, phụ nữ Việt quả là bị thiệt thòi
về con đường sự nghiệp khi mới bắt tay vào nghề.
Và
còn hơn thế nữa, một số phụ nữ vượt qua được những trở ngại lúc ban đầu để đạt được những vị trí có uy tín trong xã hội
thì lại bị “loại ra khỏi vòng chiến” đúng vào lúc họ đang sung sức nhất. Tuổi 50 là lúc đa số những ai làm việc có
công tâm và cầu tiến gặt hái được những kinh nghiệm và kỹ năng làm việc ở độ
cao. Tuổi này cũng tương đối thoải mái
hơn lúc tuổi 25-40, vì vấn đề kinh tế đã ổn định, con cái cũng đã khá lớn, và
cũng “biết mình, biết người” hơn. Người
ở tuổi này, nam hay nữ, thường đã đạt được chút địa vị, danh tiếng, và thường
là những “nhân vật” được đề cử vào những chức vụ lãnh đạo.
Thế
nhưng, đến 55 tuổi phụ nữ phải về hưu, hoặc nếu còn làm việc thì cũng không
được thăng tiến nữa, vì lí do tuổi tác.
Có phải là một lần nữa, phụ nữ Việt lại “nhường bước” cho đàn ông không?
Cuối
cùng, càng về già tôi càng thấy Bác Hồ đã có tầm nhìn rất xa (mặc dù không dám
quả quyết là Bác có nghĩ như vậy không)
về vấn đề bình đẳng giới tính này, khi Bác nói một câu để đời: “Không có gì quí hơn độc lập, tự do.”
Vũ-Đức Vượng, GS Xã hội học