MỪNG HAY LO?

 


Những năm gần đây, chúng ta thường thấy những nhà giáo, nhà nghiên cứu lên tiếng trên báo chí về tình trạng học sinh ngày nay không còn yêu thích văn học Việt Nam nữa, thậm chí tiếng Việt nói chung cũng bị giới trẻ bóp méo đi bằng một thứ chính tả lai tạo, không ra tiếng Pháp, tiếng Anh cũng chẳng phải tiếng Hoa.


Về phần cá nhân tôi, khi được phân công dạy môn “Giới và  Phát triển” cho sinh viên (SV) năm thứ nhất của trường Đại học Hoa Sen, tôi cảm thấy khá thích thú, vì đây sẽ là một dịp để tôi thử trắc nghiệm trên thực tế xem mức độ tình yêu tiếng Việt của nhóm sinh viên này ra sao, những lời than phiền của dư luận xã hội có đúng như vậy không.

 

Các SV theo học môn “Giới và Phát triển” là SV thuộc nhiều khoa, ngành khác nhau trong trường, chẳng hạn như: Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa học, Khoa kinh tế & Thương mại, Khoa Quản trị…

 

Vào đợt thi giữa kỳ vào tháng 11/2010 vừa qua, tôi ra một đề thi trong đó có câu: “Anh/ chị hãy nêu 3 câu ca dao, tục ngữ của Việt Nam nói lên định kiến tiêu cực về phụ nữ. Anh/ chị hãy cho nhận xét và bình luận theo quan điểm giới về các câu ca dao, tục ngữ này”.

 

Tuy nhiên, một vài người trong nhóm giảng viên cùng dạy với tôi dường như đã thấy trước được tình hình kết quả sẽ không được khả quan nên đã chỉnh sửa lại bằng cách cho sinh viên có hai lựa chọn, tức là được chọn làm một câu hỏi khác, nếu sinh viên không nhớ được ca dao, tục ngữ. Câu hỏi đó như sau: “Trong phân công lao động hiện nay có bao nhiêu dạng hoạt động? Anh/ chị hãy nêu lên nhận xét của mình về sự tham gia và đóng góp của nam giới và nữ giới trong những hoạt động đó hiện nay”.

 

Sau khi chấm bài xong, tôi ghi nhận lại kết quả bài làm của sinh viên trong 3 lớp tôi dạy. Tôi xin trình bày qua các bảng sau đây:

 

Bảng 1. Các lựa chọn của sinh viên, n= bài

 

Các lựa chọn của sinh viên

Lớp L10

Lớp L11

Lớp L12

Tổng cộng

n

n

n

n

%

SV chọn làm câu hỏi về ca dao tục ngữ

23

10

13

46

38.9%

SV chọn làm câu hỏi về phân công lao động

26

26

20

72

61.1%

Tổng cộng

49 bài

36 bài

33 bài

118 bài

100%

 

Bảng 1 cho ta thấy có gần 40% sinh viên chọn làm câu hỏi về ca dao, tục ngữ; số còn lại, các em chọn làm câu hỏi về “phân công lao động” là một câu mà các em đã được học tại lớp về lý thuyết và cũng được thực hành tính số giờ lao động của nam và nữ. Nếu so sánh về độ khó thì hai câu hỏi có vẻ tương đương với nhau. Điều này cho thấy khi chọn làm về ca dao, tục ngữ, sinh viên cũng vẫn còn yêu thích văn học cổ xưa, dân gian, hoặc dù không còn yêu thích nhưng tối thiểu là các em cũng vẫn biết và còn nhớ được ít nhiều.   

 

Những câu ca dao, tục ngữ phổ biến nói lên định kiến tiêu cực về phụ nữ đã được ghi trong các bài làm của sinh viên khá phong phú như sau:

-        Đàn ông nông nổi giếng khơi (thơi),

      Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

 

-        Đàn ông miệng rộng thì sang,

Đàn bà miệng rộng, tan hoang cửa nhà.

 

-        Đàn ông miệng rộng thì tài,

Đàn bà miệng rộng, điếc tai láng giềng.

 

-        Trai ba mươi tuổi đang xoan, gái ba mươi tuổi đã toan về già.

 

-        Một trăm con gái không bằng một hòn d… con trai.

 

-        Con gái giống cha, giàu ba họ,

Con trai giống mẹ, khó ba đời.

 

-        Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.

 

-        Cây độc không trái, gái độc không con.

 

-        Nứa trôi sông, không dập cũng gãy

            Gái chồng rẫy, không chứng nọ cũng tật kia.

 

-        Con gái là con người ta,

Con dâu mới thật mẹ cha mua về.

     

-        Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng,

Một là sát chồng, hai là hại con.

 

-        Những người thắt đáy lưng ong,

            Đã khéo chiều chồng lại giỏi nuôi con,

Những người béo trục, béo tròn,

Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày.

 

-        Đàn bà yếu chân, mềm tay,

Làm ăn chẳng được, lại hay nỏ mồm.

 

-        Mèo lành chẳng ở mả,

Ả lành chẳng ở hàng cơm.

 

 

Theo một bài báo của tác giả Hà Thanh, “Đọc văn hóa Hàn bằng tiếng Việt” đăng trên báo Tuổi Trẻ, ngày 26/11/2010, có đoạn nhận xét rằng: “Thành ngữ, tục ngữ, hương ca, ca dao Go Ryeo… lâu nay gần như không còn được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày của giới trẻ Hàn” và nếu các bạn trẻ có muốn tra cứu thì cũng khó mà tìm thấy trên kệ sách của các nhà sách hoặc trên mạng internet.  Đối với giới trẻ Việt Nam, trường hợp này cũng phổ biến. Đối với các SV không chọn làm câu hỏi về ca dao, tục ngữ, các em cho rằng hiện nay hầu như không thể tìm trên internet các câu ca dao, tục ngữ Việt Nam; thậm chí còn nguy hại hơn, đó là nếu có thì lại là những câu ca dao được cải biên lại để làm chuyện cười, nhiều lúc mang ý nghĩa dung tục.

 


Nhìn lại kết quả gần 40% SV đã chọn làm bài thi của môn học với các câu ca dao tục ngữ, tôi thấy nhóm SV các lớp tôi dạy cũng đã có nhiều cố gắng. Từ khi bắt đầu học môn này, các em đã về nhà hỏi những người lớn tuổi để chuẩn bị, một số SV khác thì chú ý ghi chép tại lớp vì thỉnh thoảng tôi cũng lồng ghép ca dao, tục ngữ khi giảng bài.

 

Một khía cạnh khác, SV cho rằng hiện nay đã không còn các định kiến giới như trong các câu ca dao tục ngữ đã nêu ở trên, vì vậy nên các em thấy rằng không cần thiết phải nhớ những câu này nữa. Tuy nhiên, theo tôi thì ta cũng nên cho giới trẻ biết về những định kiến này, để các em thấy được sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong xã hội Việt Nam trước đây ra sao, và từ đó, các em cũng sẽ có niềm tin vào tương lai tươi đẹp hơn, khi chính các em trở thành những người chủ của đất nước, các em sẽ tiếp tục thay đổi những gì còn chưa tốt về mặt bình đẳng giới.

 

Tóm lại, qua đợt kiểm tra này, tôi nhận thấy nhìn chung giới trẻ dường như cũng vẫn còn quan tâm đến ca dao tục ngữ, nếu ta thường xuyên giới thiệu các câu này cho SV. Tôi thấy một vài giảng viên các ngành khoa học xã hội hiện nay thường vẫn làm việc này.

Lê Thị Hạnh-GAS HSU