QUAN ĐIỂM XÃ HỘI VỀ HÔN NHÂN CÙNG GIỚI: MỘT ĐIỂM NHÌN VỀ GIÁ TRỊ HÔN NHÂN

 Trong bối cảnh năm năm sau thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, các tổ chức và các nhà hoạt động xã hội đã và đang chuẩn bị cho giai đoạn vận động sửa đổi luật tiếp theo, hướng tới hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Nghiên cứu Quan điểm xã hội về Hôn nhân cùng giới được Viện iSEE thực hiện từ tháng 7 đến tháng 11 năm 2019 nhằm tìm hiểu quan điểm xung quanh vấn đề hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới, từ đó cung cấp thông tin giúp xây dựng chiến lược nâng cao nhận thức xã hội. 

Từ mục đích này, nhóm nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu nhóm tự nhận là có quan điểm trung lập về hôn nhân cùng giới trong xã hội, bao gồm những người có quan điểm phần nào ủng hộ hoặc phản đối nhưng vẫn nhận ở nhóm trung lập. Có 36 người ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tham gia cung cấp thông tin cho nghiên cứu, thông qua phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Nghiên cứu đã ghi chép lại những lý do ủng hộ hay phản đối hôn nhân cùng giới của người tham gia, cũng như chỉ ra những yếu tố tác động đến quan điểm và thái độ của họ. 



Những người có quan điểm nghiêng về phía ủng hộ công nhận hôn nhân cùng giới có điểm chung là những người được tiếp cận thông tin đúng đắn về người đồng tính nói riêng và cộng đồng LGBT nói chung. Họ cho rằng việc công nhận quyền kết hôn của người LGBTI thể hiện sự bình đẳng về quyền và đóng góp cho sự hòa hợp, phát triển của xã hội. 

Ngược lại, những người có quan điểm nghiêng về phản đối bày tỏ sự lo ngại về các hệ lụy xã hội từ việc hợp pháp hóa hôn nhân cùng giới. Cụ thể, họ cho rằng giới trẻ có thể sẽ bị ngộ nhận về giới tính và dân số bị ảnh hưởng. Hai mối lo ngại này thường đến từ sự thiếu kiến thức về tính dục, họ cho rằng đồng tính là một dạng bệnh lý và có thể “lây”, và việc công nhận hôn nhân cùng giới sẽ dẫn tới số lượng người đồng tính ngày càng tăng lên, gây suy giảm dân số.

Một băn khoăn khác mà hầu hết người tham gia nghiên cứu đều đưa ra là việc công nhận hôn nhân cùng giới sẽ dẫn đến xung đột xã hội giữa các nhóm có quan điểm khác nhau về người LGBTIQ. Đây là gợi ý cho các chiến lược nâng cao nhận thức xã hội mở rộng hoạt động, vươn tới những địa bàn ngoài khu vực đô thị. 

Kiến thức, hiểu biết của một người về cộng đồng LGBTI không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng tới quan điểm ủng hộ, trung lập hay phản đối hôn nhân cùng giới của họ. Quan điểm về mục đích của hôn nhân, những giá trị nền tảng về tình yêu và gia đình, những quy chuẩn về vai trò giới trong xã hội, hay nhận thức về mối quan hệ giữa công dân và pháp luật cũng là các yếu tố ngầm chi phối quan điểm của họ khi được hỏi. 

Hầu hết người tham gia nghiên cứu đều đồng ý rằng, ‘hôn nhân’ là cái đích mà các cặp đôi đều hướng tới khi yêu nhau để cùng xây dựng ‘gia đình’. Vì thế trong các định nghĩa về ‘hôn nhân’ và ‘gia đình’ mà những người trả lời phỏng vấn đưa ra có mối quan hệ mật thiết với nhau. Có một điều thú vị rằng với họ ‘tình yêu’ không phải là điều duy nhất quan trọng trong hôn nhân. Theo bảng tần suất dưới đây, các thành tố quan trọng nhất trong hôn nhân lần lượt là: Duy trì nòi giống, (hướng tới duy trì) Mối quan hệ lâu dài, Trách nhiệm, Sự chia sẻ, và Tình yêu.

Những thành tố của hôn nhân này cũng gắn chặt với hình mẫu gia đình lý tưởng mà những người trả lời phỏng vấn mô tả, là nơi mà: hai người nam nữ cùng sinh con và chia sẻ trách nhiệm chăm sóc con cái để duy trì một gia đình bền lâu. Những cách nhìn nhận về hôn nhân và gia đình này rất nhất quán khi đối chiếu với câu trả lời về những lý do khiến người tham gia nghiên cứu lo ngại về việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới.

Không chỉ giới hạn ở quan điểm về hôn nhân, những giá trị và nền tảng văn hoá gia đình cũng có tầm ảnh hưởng nhất định tới quan điểm của người tham gia nghiên cứu. Số đông người tham gia nghiên cứu cho rằng ‘hy sinh’ được cho là một thành tố quan trọng để cá nhân có thể duy trì gia đình bền vững, đặc biệt ở nhóm trung niên và nhóm cao tuổi. Quan niệm này được xây đắp trong xã hội Việt Nam từ thời kỳ chiến tranh và kéo dài đến tận giai đoạn hậu chiến. Những trải nghiệm từ cuộc sống cá nhân khiến cho họ tin rằng sự hy sinh là đức tính cần thiết phải có khi sống trong gia đình. Đạo đức của sự hy sinh đặc biệt được nhắc tới như là đức tính đáng trân trọng trong vai trò của những người làm cha, làm mẹ khi cống hiến tất cả trong khả năng có thể cho con cái. 

Trước quan niệm này, những người con trong gia đình cũng được mong đợi cần phải biết tiết chế ‘cái tôi’ (ego), đặt sự hòa hợp của gia đình lên hàng đầu. Điều này cũng giải thích việc người LGBTI công khai sống thật có thể bị chỉ trích hơn là nhận được sự thông cảm. Việc công khai và sống khác với ‘lẽ thường’, trái với kỳ vọng của gia đình và số đông xã hội trở thành những lựa chọn cá nhân ‘ích kỷ’, ‘chỉ biết đến bản thân mình’. Trong nền văn hóa đặt những nhu cầu cá nhân đằng sau những chuẩn mực và trật tự xã hội, người đồng tính cũng bị yêu cầu phải ‘hy sinh’ để sống theo những gì mà cha mẹ và xã hội mong muốn. 

Đọc tiếp bấm vào đây Nguồn http://isee.org.vn/quan-diem-xa-hoi-ve-hon-nhan-cung-gioi-mot-diem-nhin-ve-gia-tri-hon-nhan/