BIỂU CẢM KHUÔN MẶT QUA CÁC NỀN VĂN HÓA



Linh Mỹ - Ybox

BIỂU CẢM KHUÔN MẶT QUA CÁC NỀN VĂN HÓA

Văn hóa ảnh hưởng như thế nào đến cách chúng ta giải thích các biểu hiện cảm xúc trên khuôn mặt.


“ Khuôn mặt là chân dung của tâm hồn mà đôi mắt làm công việc diễn giải”—Cicero

Chiều sâu của tâm hồn - điều mà đôi mắt của chúng ta có thể phản ánh chân thật nhất. Từ vui mừng, giận dữ tới sợ hãi, buồn bã cho tới chán ghét, con mắt là những tấm cửa sổ phản ánh nội tâm. Chúng ta dùng đôi mắt của mình để nhìn thế giới xung quanh và phản ánh thế giới bên trong chúng ta. Cũng như bộc lộ các trạng thái cảm xúc nội tâm của chúng ta với các biểu hiện trên khuôn mặt và thể hiện chúng một cách chính xác - là một trong những điều cơ bản của tương tác xã hội.

Ý nghĩa sinh học của khuôn mặt như một công cụ cho giao tiếp bắt đầu khi mới sinh ra. Ngay từ 9 phút sau khi sinh, trẻ sơ sinh thích nhìn vào khuôn mặt hơn là các đồ vật, và khi mới 12 ngày tuổi, trẻ đã có khả năng bắt chước các cử chỉ trên khuôn mặt. Khả năng này sau đó sẽ góp phần vào sự phát triển các kỹ năng nhận thức như ngôn ngữ và tư duy (tức là hiểu ý định của người khác).

Nguồn: Behance


Không phải tất cả đều đơn giản khi nhận biết cảm xúc — đặc biệt là khi đọc cảm xúc giữa các nền văn hóa. Bất chấp tính phổ biến của mọi khung bậc cảm xúc cơ bản, cũng như các cơ mặt và cấu trúc thần kinh tương tự chịu trách nhiệm về biểu hiện cảm xúc, mọi người thường đúng hơn khi đánh giá các biểu hiện trên khuôn mặt từ nền văn hóa của họ hơn là từ những người khác. Điều này có thể được giải thích bởi sự tồn tại của các chữ ký mang phong cách riêng và văn hóa đặc trưng của giao tiếp phi ngôn ngữ. Những “điểm nhấn” văn hóa này ảnh hưởng đến tương tác giữa tự nhiên (sinh học) và nuôi dưỡng (bối cảnh văn hóa), do đó, ảnh hưởng đến nhận thức và diễn đạt cảm xúc.


Vậy, văn hóa ảnh hưởng đến nhận thức cảm xúc như thế nào?

 

Đầu tiên là trong nhận thức về cường độ của cảm xúc. Ví dụ, người Mỹ đã được chứng minh là đánh giá những biểu hiện vui, buồn và ngạc nhiên giống nhau hơn so với người Nhật. Hơn nữa, sự khác biệt đã được tìm thấy trong cách chúng ta suy ra trải nghiệm bên trong từ những biểu hiện cảm xúc bên ngoài. Ví dụ, khi được yêu cầu đánh giá các khuôn mặt về mức độ họ thể hiện những cảm xúc nhất định và mức độ thực sự của những người đặt ra đang cảm nhận những cảm xúc này, những người nước Mỹ khi tham gia đã đưa ra đánh giá cao hơn về biểu hiện bên ngoài của cảm xúc. Mặt khác, những người Nhật Bản đã xếp hạng cao hơn cho những trải nghiệm nội tâm về cảm xúc. Do đó, tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, sự bất ổn bên trong có thể không nhất thiết phải rõ ràng trên khuôn mặt, trong khi một nụ cười quá khích có thể chỉ ngụy trang sự quan tâm hờ hững.


Sự khác biệt giữa các nền văn hóa này trong việc giải thích cường độ cảm xúc đã được quy cho các quy tắc thể hiện.


Quy tắc thể hiện  là “các quy tắc văn hóa quy định việc điều chỉnh và sửa đổi các biểu hiện cảm xúc tùy thuộc vào hoàn cảnh xã hội” (Matsumoto và cộng sự, 2008). Các quy tắc thể hiện theo văn hóa cụ thể được học trong thời thơ ấu. Những quy tắc này có thể cho chúng ta biết liệu có phù hợp để phóng đại, khử khuếch đại, che dấu hoặc vô hiệu hóa các biểu hiện cảm xúc của chúng ta hay không cũng như cung cấp cho chúng ta các quy tắc chuẩn mực về thời điểm và cách thể hiện cảm xúc của mình.


Một nghiên cứu kinh điển từ những năm 1970 cho thấy sự khác biệt giữa các nền văn hóa trong quy tắc hiển thị liên quan đến việc người Mỹ và Nhật Bản xem phim về căng thẳng với hai điều kiện — một lần ở một mình và một lần với người trải nghiệm trong phòng (Ekman, 1971). Những người tham gia từ cả hai nền văn hóa có biểu cảm khuôn mặt giống nhau khi xem phim một mình. Tuy nhiên, với sự có mặt của người thử nghiệm, người Nhật đã che giấu những cảm xúc tiêu cực của họ thông qua nụ cười. Mặt khác, người Mỹ tiếp tục thể hiện cảm xúc tiêu cực của họ trước mặt người thử nghiệm. Những khác biệt này được giải thích bởi sự khác biệt về quy tắc hiển thị ở Nhật Bản và ở Hoa Kỳ; cụ thể là, người Nhật có xu hướng che giấu những cảm xúc tiêu cực trong môi trường xã hội để duy trì sự hòa hợp của nhóm và xu hướng tán thành việc thể hiện cảm xúc trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân như ở Mỹ.


Sự khác biệt giữa các nền văn hóa cũng được phát hiện trong các dấu hiệu mà chúng tôi tìm kiếm khi giải thích cảm xúc. Nghiên cứu theo dõi chuyển động của mắt để đánh giá nơi mọi người hướng sự chú ý của họ trong quá trình cảm nhận khuôn mặt đã chỉ ra rằng giữa các nền văn hóa, mọi người có thể lấy mẫu thông tin khác với khuôn mặt. Ví dụ, khi xác định khuôn mặt, những người tham gia Đông Á tập trung vào vùng trung tâm của khuôn mặt xung quanh mũi, coi trọng mắt và hướng nhìn hơn. Mặt khác, những người tham gia nghiên cứu ở phương Tây da trắng lại  mong đợi các tín hiệu biểu hiện cảm xúc trên khuôn mặt từ lông mày và vùng miệng.


Thành kiến ​​về sự chú ý cũng được làm nổi bật khi những người tham gia được yêu cầu nhìn vào những khuôn mặt có biểu hiện trái ngược nhau (tức là đôi mắt buồn với khuôn miệng vui vẻ). Kết quả cho thấy những người tham gia Nhật Bản có cảm xúc mạnh với sự miêu tả bằng đôi mắt, trong khi những người tham gia Mỹ bị ảnh hưởng tương đối nhiều hơn bởi vùng miệng. Có thể giải thích cho sự khác biệt này là các quy tắc hiển thị quy định mức độ kiểm soát ảnh hưởng cao khiến mọi người chú ý hơn đến các chi tiết phức tạp và do đó mang nhiều thông tin về trạng thái cảm xúc thực sự (tức là mắt). Trong khi đó, ở các nền văn hóa có quy tắc biểu lộ ít nghiêm ngặt hơn, người ta tập trung vào miệng, vì nó là phần biểu cảm nhất trên khuôn mặt.


Theo một số nhà nghiên cứu, những kết quả này có thể phản ánh qua những cảm xúc cách điệu hoá được mô tả bằng các biểu tượng cảm xúc: ở Nhật Bản, biểu tượng cảm xúc truyền tải thông điệp nội tâm chủ yếu qua mắt, nhưng ở phương Tây, chủ yếu là qua miệng.


Tất cả chúng ta đều sử dụng nét mặt như một công cụ không thể thiếu để giao tiếp xã hội, nhưng văn hóa ảnh hưởng đến nhận thức cảm xúc theo những cách tinh vi và thâm sâu. Từ phong cách nhận thức được định hình bởi các quy tắc hiển thị cho đến thành kiến chú ý mà chúng ta đưa ra các dấu hiệu trên khuôn mặt, hay nhận thức về những ảnh hưởng văn hóa này có thể cải thiện độ chính xác giúp chúng ta giải mã cảm xúc trong quá trình tương tác với những người từ các nền văn hóa khác.


Thay mặt cho Ban Biên Tập Gender Talk, chúng tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Tác giả Linh Mỹ Báo Ybox Online vì cho phép chúng tôi đăng lại bài toàn văn. Sự đóng góp của Tác giả và Quý Báo rất quý giá và ý nghĩa. Xin trân trọng cảm ơn!