Ngoại Hình - Căm Thù Cơ Thể Mình

 

[ToMo - Song Ngữ] Tôi Đã Bắt Đầu Yêu Cơ Thể Mình Như Thế Nào - Phần 1: Lòng Căm Thù Sâu Sắc Với Cơ Thể Của Mình

This is part 1 of my 4-part series on body image, about how I used to hate my body, how I overcame it, and how you can achieve a positive body image.

Đây là phần 1 trong loạt bài gồm 4 phần về việc tôi tự đánh giá ngoại hình của mình, về cách mà tôi vẫn luôn ghét cơ thể mình, cách tôi vượt qua nó và làm thế nào để bạn có thể đạt được cái nhìn tích cực về cơ thể bạn.

For a long time up until recently, I hated my body.

While most people hate their body due to certain features, their body frame, or a disdain of their body type, my body hate did not stem from any of that. I never had a problem with my natural appearance, my body type, my height (1.7m / 5′ 7″), my body frame (which is bigger than the average petite Asian female due to my height), nor my facial features (except for two of them, which I addressed a year ago as shared in my beauty article.)

Từ lâu về trước cho tới gần đây, tôi đã rất ghét cơ thể mình.

Trong khi hầu hết mọi người đều ghét cơ thể họ vì một số đặc điểm nhất định, về khung cơ thể hoặc một sự coi thường về kiểu cơ thể của họ, thì việc căm ghét cơ thể của tôi lại không bắt nguồn từ bất kỳ điều gì như vậy. Tôi không hề có vấn đề với vẻ ngoài tự nhiên, kiểu cơ thể của mình, kể cả chiều cao (1.7m/5’7’’), khung cơ thể của tôi (lớn hơn phụ nữ châu Á nhỏ nhắn trung bình do chiều cao của tôi), cũng như các đặc điểm trên khuôn mặt (ngoại trừ hai thứ mà tôi đã đề cập một năm trước như đã chia sẻ trong bài báo làm đẹp của tôi.)

Rather, my body hate stemmed from my inferiority of my weight. I had always felt that I was heavier than I should be. While I have never been overweight or truly “fat,” I used to wish that I could be thinner/lighter. I believed that no matter how (well) I looked, how many people praised me about my appearance, or how heavy (or light) I was, I would be much more attractive if I was slimmer—much slimmer. 

Đúng hơn thì, tôi ghét cơ thể mình bắt nguồn từ việc tự ti với cân nặng. Tôi đã luôn cảm thấy rằng tôi nặng hơn so với cân nặng nên có. Mặc dù tôi chưa từng bị thừa cân hoặc thật sự “béo”, tôi luôn ao ước rằng tôi có thể trở nên gầy/nhẹ hơn. Tôi tin là bất kể mình trông (đẹp) như thế nào, bao nhiêu người khen ngợi ngoại hình tôi ra sao, hoặc tôi từng nặng (hay nhẹ) như thế nào, thì tôi vẫn sẽ hấp dẫn nếu manh mải hơn-mảnh mai nhiều hơn nữa.

Start of My Self-Body-Hate
Khởi đầu của việc ghét cơ thể chính mình
A Childhood Experience
Trải nghiệm quá khứ

A big part of this self-body-hate probably started when I was in secondary school.

I had a girlfriend who would regularly dissect and disparage her body parts, including referring to her thighs as “tree trunks” — even though she was stick skinny and easily one of the skinniest girls I knew.

Một phần nguyên nhân lớn của việc chán ghét cơ thể mình có lẽ bắt đầu khi tôi còn học cấp hai.

Tôi có một cô bạn thường xuyên mổ xẻ và chê bai các phần trên cơ thể cô ấy, bao gồm việc gọi cặp đùi cô ấy là “thân cây”- kể cả khi cô ấy rất gầy và có lẽ là người gầy nhất mà tôi quen biết.

At that time, I didn’t understand why she would repeatedly put down her looks like that. Whenever she berated her thighs, I would look at my own thighs and wonder why she would think her thighs were large, for my thighs were much larger (and I was at a healthy weight for my height).

Lúc đó, tôi không hiểu nổi vì sao cô ấy lại liên tục hạ thấp ngoại hình của mình như thế. Bất cứ khi nào cô ấy đánh giá về đùi của mình, tôi đều nhìn lại cặp đùi của tôi và tự hỏi, tại sao cô ấy có thể nghĩ đùi cô ấy to lớn, vì đùi tôi còn to hơn nhiều (và tôi đang có mức cân nặng phù hợp với chiều cao của mình).

While I did not hate my body nor think that I was fat in any way then, hearing her constant disparaging of her thighs planted the first seeds of doubt about my body’s integrity. It made me wonder if I was perhaps missing something about my body and that it was not as “okay” or perfect as I thought it was.

Dù tôi không ghét cơ thể mình hay nghĩ rằng mình béo theo cách nào đó, nhưng việc nghe cô ấy liên tục chê bai cặp đùi của bản thân đã gieo những mầm mống đầu tiên khiến tôi ngờ vực về sự toàn vẹn của cơ thể mình. Nó khiến tôi tự hỏi có phải tôi đang bỏ lỡ điều gì về cơ thể tôi hay không, và nó có “ổn” hay hoàn hảo như tôi vẫn nghĩ không.

Thin = Beauty = Attention from Guys

Gầy=Xinh đẹp=Nhận được sự chú ý từ các chàng trai

Somewhere down the line, between growing up in primary school and junior college, I noticed that the thin girls would get more attention from guys and/or appear more physically attractive to them.

Ở một thời điểm nào đó, trong giai đoạn lớn lên từ tiểu học tới đại học, tôi để ý rằng những cô nàng gầy sẽ nhận được nhiều chú ý của các chàng trai hơn hoặc có vẻ ngoài hấp dẫn hơn với họ.

For example, when I was in secondary school, there was girl who was excruciatingly skinny and was regarded as a school belle among my peers. When I was in junior college, I had a fairly skinny schoolmate who often received compliments from male peers about her looks even though she didn’t have the conventional good looks/features. It was apparent that guys found her attractive because of how slim she was.

Ví dụ, khi tôi còn học cấp hai, có một cô gái cực kỳ gầy và còn bị coi là đứa trẻ đáng sợ trong số các bạn đồng trang lứa với tôi. Khi tôi vào đại học, tôi có một cô bạn học khá gầy, cô ấy thường xuyên nhận được lời khen về ngoại hình từ các bạn nam khác, mặc dù cô ấy nhìn không đẹp lắm. Rõ ràng phái mày râu thấy cô ấy cuốn hút bở vì cô ấy rất thanh mảnh.

And then on and off, one would hear of girl friends with suitors or guy friends who are after particular girls. The common denominator among all these girls was that they would be fairly skinny (as opposed to having certain facial features or a “look”), which was undoubtedly attractive to the guys.

These incidents made me subconsciously conclude that being skinny is equivalent to beauty and that to be regarded as beautiful by others, I had to be stick skinny.

Và sau đó, người ta nghe nói về những cô nàng với người cầu hôn hoặc những anh chàng theo đuổi mẫu bạn gái cụ thể. Điểm chung của tất cả các cô gái đó là họ sẽ khá gầy (trái ngược với việc có một số đặc điểm trên khuôn mặt hoặc một “ngoại hình”), điều này chắc chắn là hấp dẫn đối với các chàng trai.

Những điều tình cờ này khiến tôi kết luận trong tiềm thức rằng trở nên gầy là tương đương với xinh đẹp và để người khác coi là đẹp, tôi phải gầy đi.

Projections of Beauty by the Media

Những dự án sắc đẹp của truyền thông

Subsequently, I became exposed to projected images of beauty in the mass media on a regular basis. From leggy models to sharp facial contours to stick-thin celebrities, these images were repeatedly projected as standards of beauty which all girls should strive for.

Guys would hanker after females with said qualities, hence reinforcing these images as “standards” to strive for. Among females, sizes 0 to 2 (U.S. size) would be aspirational dress sizes because these were dress sizes for models and shop mannequins.

Sau này, tôi thường xuyên tiếp xúc với những hình ảnh về sắc đẹp chiếu trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Từ các người mẫu chân dài, đường nét gương mặt sắc sảo, cho tới những người nổi tiếng có thân hình gầy gò, những hình ảnh này lặp đi lặp lại, được coi là tiêu chuẩn nhan sắc mà tất cả các cô gái cần phải vươn tới.

Các chàng trai sẽ săn đón những cô nàng với đặc điểm trên, vì vậy những hình ảnh này được phổ biến như “tiêu chuẩn” để phấn đấu. Đối với phụ nữ, kích thước từ 0 đến 2 (kích thước Mỹ) sẽ là kích thước trang phục ai cũng khao khát, bởi đó là kích cỡ trang phục dành cho các người mẫu và ma-nơ-canh trong cửa hàng.

Myself, I was no size 0 nor size 2; I don’t think it’s physically possible for me to ever achieve this dress size because my natural body frame just isn’t that small. The thinnest I can be without looking bizarrely thin would be size 6–8 (which would my current dress sizes); endeavoring to achieve a size 0 or 2 would only make me look extremely unproportional and no different than some alien being.

Bản thân tôi, tôi không có kích cỡ 0 hay 2, tôi không nghĩ tôi có thể đạt được kích cỡ quần áo này về mặt thể chất vì khung cơ thể tự nhiên của tôi không nhỏ như vậy. Mức gầy nhất tôi mà tôi có thể mà trông không kỳ lạ sẽ là cỡ 6 đến 8 (cỡ váy hiện tại của tôi); việc cố gắng đạt đến cỡ 0 hoặc 2 chỉ khiến tôi trông chẳng cân đối tí nào và không khác gì một sinh vật ngoài hành tinh.

Of course, this wasn’t a factor of my concern back then. My only obsession was to be as thin as possible, then evaluate the results later.

To be stick skinny—that was deemed as a good thing. To not be stick skinny was deemed as being not “attractive”, not “beautiful”, or even—not deserving of love.

Tất nhiên, đây không phải yếu tố tôi quan tâm thời đó. Ám ảnh duy nhất của tôi là trở nên càng gầy càng tốt, rồi đánh giá kết quả sau.

Gầy đi-đó được coi là một điều tốt đẹp. Không gầy bị xem là không “hấp dẫn”, không “xinh đẹp”, hoặc thậm chí- không xứng đáng để yêu.

Attempts to Conform to the Idealized Image of Beauty

Nỗ lực để phù hợp với hình ảnh xinh đẹp lý tưởng

Because I did not conform to the sticky skinny image of beauty (I hovered between U.S. sizes 10 and 14 during the years I struggled with my weight), I harbored a deep hatred for my body. I constantly wished that I was thin, thinner than I was, or better yet, thinnest among everyone I knew.

Vì tôi không phù hợp theo tiêu chuẩn gầy đẹp (tôi lơ lửng giữa kích cỡ 10 và 14 của Mỹ trong suốt những năm vật lộn với cân nặng của mình), tôi đã nuôi dưỡng một lòng căm thù sâu sắc với cơ thể tôi. Tôi không ngừng ước rằng mình gầy đi, gây hơn nữa, hoặc tốt nhất là, gầy nhất trong số những người tôi quen biết.

My weight loss journey would be fraught with difficulties for my childhood was laced with emotional eating issues (which I’ve written before in my 6-part emotional eating series and have since overcame as well). I constantly ate to feed my emotions, resulting in weight gain over time despite my healthy eating efforts and constant exercising.

Hành trình giảm cân của tôi đầy rẫy những khó khăn vì thời thơ ấu tôi mắc phải các vấn đề về ăn uống theo cảm xúc (điều tôi đã viết trước đây trong loại bài về ăn uống theo cảm xúc gồm 6 phần và kể từ đó tôi cũng vượt quá được nó). Tôi liên tục ăn để thỏa mãn cảm xúc của mình, dẫn đến tăng cân theo thời gian dù tôi cố gắng ăn uống lành mạnh và thường xuyên tập thể dục.

Because of my emotional eating issues, weight was frequently an area of contest within myself. I would constantly set goals to lose weight, only to fail one way or another. This would make me hate myself even further, for not being able to achieve my goal.

Do mắc vấn đề ăn uống theo cảm xúc, việc cân thường xuyên là vấn đề đối với tôi. Tôi đã liên tục đặt ra nhiều mục tiêu để giảm cân, nhưng chỉ thất bại hết lần này tới lần khác. Điều này làm tôi căm ghét bản thân nhiều hơn, vì đã không thể đạt được mục tiêu của mình.

For the record, my real problem was not in losing the weight. My problem was with sustaining my weight losses, partly due to my emotional eating issues. Regardless of how much weight I would lose during each weight loss endeavor, I would regain my “excess” weight after a while, through one way or other. From gradual regains over the span of months to immediate weight regains in a matter of days, I would always regain my lost weight.

Theo ghi chép, vấn đề thực sự của tôi không phải việc giảm cân. Mà nó là duy trì giảm cân, một phần do các vấn đề ăn uống theo cảm xúc của tôi. Bất kể tôi giảm được bao nhiêu cân trong mỗi lần nỗ lực, tôi sẽ lấy lại trọng lượng “dư thừa” của mình sau một thời gian, bằng cách này hoặc cách khác. Từ việc phục hồi dần dần trong khoảng thời gian vài tháng đến tăng cân ngay lập tức trong vài ngày, tôi sẽ luôn lấy lại được cân nặng đã mất của mình.

It was almost as if my excess weight had a mind of its own. No matter how many times I lost it, it would find its way to pile itself back onto my body. It was as if I couldn’t run away from it, no matter how hard I tried.

Như thể trọng lượng dư thừ của tôi cũng có suy nghĩ của riêng nó. Dù tôi tôi giảm nó bao nhiêu lần, nó vẫn sẽ tìm cách để chất đống trở lại trong cơ thể tôi. Như thể tôi không tài nào chạy trốn khỏi nó, dù có cố gắng bao nhiêu đi chăng nữa.

The Dark Depths of Self-Body-Hate

Vực sâu tăm tối của việc căm ghét cơ thể mình

I hated hating my body. I hated constantly berating my body as if it were a contemptuous object.

From hating the fats on my thighs, to hating the thin space between my thighs, to hating the “heaviness” of my body (largely a psychological perception), to hating the “bigness” of my hips, to hating the “largeness” of my calves, I hated everything there was to hate about my body.

Tôi ghét việc mình căm ghét cơ thể mình. Tôi ghét việc liên tục nhiếc móc cơ thể như thể nó là đối tượng để khinh miệt.

Từ ghét lớp mỡ trên đùi, ghét khoảng trống mỏng manh giữa hai đùi, ghét sự “nặng nề” của cơ thể (phần lớn do nhận thức tâm lý), ghét sự “to lớn” của hông, đến ghét sự “to lớn” ở bắp chân mình, tôi ghét mọi thứ trên cơ thể mình.

I constantly wished that I was a few dress sizes smaller so I could fit into smaller clothes and be as slim as the standard stick-skinny Asian girl on the street. I constantly wished I could be lighter by say, 10kg or so, so that I wouldn’t need to slug this extra weight around and look like some fat loser to the world.

Tôi liên tục ao ước mình vừa với vài cỡ váy nhỏ hơn để có thể mặc vừa những bộ quần áo bé hơn, và sở hữu thân hình mảnh mai tiêu chuẩn như một cô gái Châu Á gầy guộc trên phố. Tôi tiếp tục ước mình nhẹ hơn một chút, 10kg hoặc tương tự thế, vì vậy tôi sẽ không cần phải  giảm thêm cân nào nữa và trông không như một kẻ béo mập nhất thế giới.

The mirror was one of my biggest nemesis, for it would reflect the image of my burgeoning body, something which I absolutely abhorred. To me, looking into the mirror was like being confronted with one of my deepest nightmares—to be an ugly and fat b*tch whom no one would ever find desirable nor want to be with. There were times when I would avoid looking into the mirror because I didn’t want to be faced with the image of my constantly expanding physical body, a problem which was made especially real due to my emotional eating problem.

Chiếc gương là một trong những kẻ thù lớn nhất, vì nó phản chiếu lại hình ảnh phát tướng của tôi, điều mà tôi cực kỳ ghê tởm. Với tôi, nhìn vào gương giống như đang đối mặt với những cơn ác mộng tăm tối nhất- trở thành một kẻ xấu xí và béo ú mà chẳng ai thèm muốn hay ở cùng. Có một thời gian tôi đã tránh nhìn vào gương vì tôi không muốn đối mặt với hình ảnh cơ thể không ngừng nở nang của mình, một vấn đề đặc biệt có thật do chứng rối loạn ăn uống theo cảm xúc của tôi.

Deep Devastation

Sự tàn phá tột độ

In my heart, I was devastated.

Sâu trong tim, tôi đã bị hủy hoại.

Why can’t I lose this weight (permanently)? I kept asking myself. For while I had no problems with many things in life and could easily overcome any problems that came my way, this weight thing just kept spinning its way back into my life—over, and over, and over again. It was a problem I could not conquer, and because of that, it gradually gained tremendous power over me.

Tại sao mình không thể giảm số cân này(vĩnh viễn)? Tôi luôn hỏi bản thân. Trong khi tôi không gặp khó khăn với nhiều thứ trong cuộc sống và có thể dễ dàng vượt qua bất kỳ vấn đề nào xảy ra theo cách của mình, thì thứ nặng nề này cứ quay trở lại cuộc sống của tôi - hết lần này đến lần khác. Nó là vấn đề mà tôi chẳng thể chế ngự được, và do đó, nó dần dần có sức mạnh phi thường lấn áp cả tôi.

I would be caught in this cycle of trying to lose weight, losing a bit of weight in the beginning, being taken off track in my diet and/or exercise after a few days, regaining all my weight back after that due to self-sabotage, then returning with a vengeance and deeper resolve later on to lose my excess weight all over again. No matter how many times I failed in my weight loss regime, I would return shortly after (be it a matter of days or weeks) to have a go at this goal again. Each time I would fail, and each time I would return to try again after that.

Tôi bị cuốn vào vòng lặp cố gắng để giảm cân, sụt được vài cân lúc đầu, không ăn kiêng và / hoặc tập thể dục sau một vài ngày, tăng lại cân như cũ ngay sau đó vì tự hủy hoại bản thân, tiếp theo quay trở lại với sự báo thù và quyết tâm sâu sắc hơn sau đó là giảm cân nặng quá mức của tôi một lần nữa. Bất kể tôi thất bại bao nhiêu lần, tôi vẫn quay lại ngay sau đó (có thể là vài ngày hoặc vài tuần) để đạt được mục tiêu này một lần nữa. Mỗi lần tôi đều thất bại, tôi sẽ quay lại để thử lại sau đó.

It would take a while before I would realize that there was something deep in my subconscious which was driving my recurring weight regain, and that I had to first decipher and address this issue before I could finally end my struggle with my poor body image.

Phải mất một thời gian trước khi tôi nhận ra rằng, có điều gì đó sâu thẳm trong tiềm thức đang thúc đẩy việc tăng cân định kỳ của tôi, và rằng trước tiên, tôi cần giải mã và xem xét vấn đề này trước khi tôi kết thúc cuộc chiến với hình ảnh cơ thể tàn tạ của mình.

(còn tiếp)

-----------------

Tác giả: Celes

Link bài viết gốc: How I Began to Love My Body, Part 1: My Deep Hatred for My Body

Dịch giả: Nguyễn Tú Anh - ToMo - Learn Something New 

LINK: https://ybox.vn/gia-vi/tomo-song-ngu-toi-da-bat-dau-yeu-co-the-minh-nhu-the-nao-phan-1-long-cam-thu-sau-sac-voi-co-the-cua-minh-63170bc034ba0e63274059d7#:~:text=[ToMo%20-%20Song%20Ng%E1%BB%AF]%20T%C3%B4i%20%C4%90%C3%A3%20B%E1%BA%AFt%20%C4%90%E1%BA%A7u%20Y%C3%AAu%20C%C6%A1