Bình Đẳng Giới và Trao Quyền Cho Nữ Giới Trong Phật Giáo Nguyên Thủy

 


Gender Equality and the Empowerment of Women in Theravada Buddhism


Bản tin của Buddhist Channel (25/5/14 ) : Cổ động cho việc ‘ Phát triển bình đẳng giới và trao quyền cho nữ giới ’ là mục tiêu thứ 3 trong 8 Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ do Liên Hiệp Quốc công bố, và được Hội Đồng Phật Giáo Úc Châu Liên Bang (Federation of Australian Buddhist Councils = FABC) mạnh mẽ ủng hộ. Một trong những vị cao tăng của Úc, ngài Ajahn Brahm, được Việt Nam mời đọc tham luận về “ Bình Đẳng Giới và Trao Quyền cho Nữ Giới ” tại đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam vào tháng 5 , 2014. Thật không may là Ajahn Brahm đã không được phép trình bày bài tham luận này do một lệnh cấm từ Ban Tổ Chức UN Vesak áp đặt chỉ một ngày trước khi hội nghị bắt đầu. Bài tham luận của Ajahn Brahm đã được Ban Tổ Chức Hội Nghị chấp thuận nhiều tháng trước khi hội nghị diễn ra.

Hội Đồng Phật Giáo Úc Châu Liên Bang rất thất vọng khi bị bỏ qua cơ hội này để cổ động cho vấn đề quan trọng về bình đẳng giới tại một sự kiện Phật Giáo quốc tế đón mừng ngày lễ trọng đại nhất của Phật lịch.

Bài phát biểu của Ajahn Brahm trình bày một luận điểm vững chắc về việc truyền đại giới Tỳ-kheo-ni trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy, được hổ trợ bằng những tham khảo trích dẫn từ lời dạy của Đức Phật và những qui định trong Luật Tạng về việc điều hành sinh hoạt Giáo đoàn Phật giáo.


Dẫn Nhập :

AjahnBrahmVào ngày 1 tháng 12 năm 1955, ở thành phố Montgomery thuộc tiểu bang Alabama, một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu đã từ chối lệnh của người tài xế xe buýt bảo bà phải nhường chỗ ngồi của mình trên xe bus cho một hành khách da trắng. Hành động đơn giản bày tỏ thái độ bất tuân ấy vì mục đích công bằng xã hội đã trở thành một trong những biểu tượng quan trọng nhất của Phong Trào Dân Quyền hiện đại ở Hoa Kỳ. Người phụ nữ ấy là Rosa Parks. Quốc Hội Hoa Kỳ đã gọi bà là “ đệ nhất phu nhân của dân quyền ” và là “ bà mẹ của phong trào tự do ”. Ngày 1 tháng 12 được tưởng niệm ở các tiểu bang California và Ohio của Mỹ như là “Ngày Rosa Parks ”. Rosa Parks đã trở thành một Phật tử trước khi bà qua đời vào năm 2005 ở tuổi 92. Người ta có thể suy đoán rằng biểu tượng phụ nữ chống kỳ thị chủng tộc này đã chọn Phật Giáo bởi vì tôn giáo này rất thích hợp đế xúc tiến các vấn đề công bằng xã hội.

Trong bài tham luận này, tôi sẽ thảo luận bằng cách nào Phật giáo có thể xúc tiến vấn đề công bằng xã hội đặc biệt đối với Mục Tiêu Thứ Ba (MTT3) trong Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ của Liên Hiệp Quốc (LHQ) , qua đề tài : Bình Đẳng Giới và Trao Quyền Cho Nữ Giới. Tôi sẽ hướng trọng tâm vào giới lãnh đạo tăng đoàn hiên tại của Phật giáo Nguyên Thủy về nhu cầu cần bày tỏ rõ ràng sự cam kết của chính họ đối với MTT3 của Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ LHQ thông qua sự công nhận việc truyền đại giới Tỳ-kheo ni . Chỉ lúc đó tăng đoàn mới có thể sử dụng ảnh hưởng lớn lao của họ để làm cho thế giới chúng ta công bằng hơn, một thế giới trong đó con người được đánh giá bởi nhân cách của họ chứ không phải bởi giới tính.

Bất Bình Đẳng Giới ở Úc và Những Đóng Góp của Các Vị Lãnh Đạo Phật Giáo

Trong bản phúc trình về bình đẳng giới do Hội đồng Chính Phủ Úc ban hành vào ngày Thứ Ba, 19 tháng 11 năm 2011, người ta thấy mức lương trung bình của nữ sinh viên mới tốt nghiệp đại học ở Úc thấp hơn 10% so với nam sinh viên. Mặc dù họ có trình độ đạt tiêu chuẩn ngang nhau, phái nữ nhận lương ít hơn phái nam. Như vậy, trong một quốc gia phát triển như nước Úc, bất bình đẳng giới tính vẫn còn tồn tại. Trong những nước kém phát triển hơn, vấn đề này tệ hại hơn nhiều.

blankNgười đồng nghiệp của tôi là Ajahn Sujato, vừa qua đã tham dự Nghi Viện Các Tôn Giáo vì Hòa Bình Thế Giới ở Vienna, do chính phủ Saudi Arabi tài trợ. Sư Sujato đã tường thuật lại trong blog của mình : “ Một chủ tọa đoàn được dành trọn để thảo luận vấn đề vai trò của nữ giới trong tôn giáo, và như có thể tiên đoán được, việc này gây ấn tượng mạnh mẽ và xúc động. Nạn hiếp dâm, bạo lực trong gia đình, buôn bán phụ nữ , ép buộc bán dâm, tử vong vì sinh sản: đó là những thực tại quá đau đớn đối với nhiều phụ nữ; trong lúc đó đạo đức tôn giáo do nam giới thống trị lại cứ bị ám ảnh về vấn đề giáo lý chính xác và ngăn chận đồng tính luyến ái. Những khổ đau của phụ nữ hiếm khi được mô tả trong các bài thuyết giảng tôn giáo, và như một trong những đại biểu đã nói, khi vấn đề đó được đề cập nó thường tẻ nhạt và mơ hồTuy nhiên, như những ai đang hoạt động trong vấn đề phát triển đất nước đều biết rõ, trao quyền cho nữ giới là phương tiện duy nhất có hiệu quả để các quốc gia thoát khỏi đói nghèo.”

Là những Phật tử ủng hộ lý tưởng từ bi vô điều kiên và tôn trọng con ngườiđánh giá con người theo cách hành xử của họ chứ không phải theo nguồn gốc họ sinh ra, chúng ta phải chuẩn bị tốt vị thế của mình để chứng tỏ tài lãnh đạo của chúng ta vể vấn đề phát triển bình đẳng giới trong thế giới hiện đại và đem lại kết quả là giảm thiểu nỗi thống khổ cho một nửa dân số trên thế giới này. Hơn nữa, nếu Phật giáo cần phải duy trì tính chất thích hợp với thời đại và phát triển, thì chúng ta phải đối đầu trực tiếp để giải quyết những vấn đề này. Nhưng làm sao chúng ta có thể bàn về vấn đề bình đẳng giới trong khi một số trong những tổ chức Phật giáo Nguyên Thủy vẫn còn phân biệt giới tính ?

Ở Úc, Giáo hội Cơ Đốc Anh đại diện cho 17.1% dân số ( theo Thống kê 2011) và vẫn duy trì tính chất hợp thời của họ bằng cách chấp nhận tấn phong nữ giám mục. Vào tháng 5 năm 2008, ở Perth, tôi được mời tham dự lễ thụ phong vị nữ giám mục đầu tiên trên thế giới của Giáo Hội Cơ Đốc Anh, đó là Giám mục Kay Goldsworthy. Giới truyền thông đã đáp ứng vô cùng tích cực đối với việc công nhận phụ nữ trong Giáo hội Cơ Đốc Anh. Những bước tiên phong như vậy đã tỏa sáng làm lộ rõ sự nổi bật đáng chê trách của các tôn giáo khác ở Úc vốn vẫn còn phân biệt đối xử dựa trên căn bản giới tính. Nhưng việc này lại tỏa ánh sáng tích cực vào Phật Giáo Nguyên Thủy ở Perth hiện đã có chư ni được thọ đại giới Tỳ-kheo-ni.

Thật không may là những chùa chiền tu viện Phật Giáo Nguyên Thủy khác ở Úc và ở các nơi khác trên thế giới vẫn còn giữ chặt không cho phép ni chúng được thọ đại giới để làm thành viên chính thức của Giáo đoàn. Tôi sẽ tranh luận về sau rằng không có một căn bản giới luật nào trong Luật Tạng, là Bộ Giới Bổn nguyên thủy của Phật Giáo, phủ nhận quyền được thọ đại giới của ni chúng. Hơn nữa, khi một số thành phần của Phật Giáo Nguyên Thủy nói chung vẫn được xem là đã ngăn cản một cách không hợp lý việc thọ đại giới của ni chúng, thì họ không có thẩm quyền đạo đức để bàn về bình đảng giới. Họ đã đánh mất cơ hội bàn về việc trao quyền cho nữ giới trong các lãnh vực khác của xã hội và xúc tiến Mục Tiêu Thứ Ba của Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ .

Khi Mahatma Gandhi còn là một sinh viên luật ở London, bà chủ nhà trọ của anh yêu cầu anh nói chuyện với con trai bà. Con trai bà ăn quá nhiều đường và không muốn nghe lời mẹ khi bà bảo cậu ấy ngưng ăn đường. Tuy nhiên, cậu ấy lại mến thích anh thanh niên Gandhi. Bà gợi ý là nếu anh Gandhi khuyên bảo con trai bà đừng ăn quá nhiều đường như thế, thì chắc là cậu ta sẽ nghe theo lời khuyên tốt đẹp ấy. Một hai tuần lễ trôi qua và cậu con trai bà chủ nhà trọ vẫn tiếp tuc ăn rất nhiều đường. Vì thế bà ấy đến gặp riêng anh Gandhi và hỏi anh tại sao anh không giữ lời hứa là sẽ nói chuyện với con trai bà. Anh Gandhi trả lời “Tôi đã nói chuyện với con trai bà, nhưng chỉ mới nói sáng nay.” - “ Vậy thì tại sao anh phải chờ lâu đến thế ? -“ Vì tôi cũng chỉ mới từ bỏ ăn đường ngày hôm qua”. Đó là câu trả lời của một người đàn ông vĩ đại.

Các nhà lãnh đạo tôn giáo, hơn ai hết, phải thực hành những gì họ thuyết giảng một cách nghiêm túc để cho lời khuyên của họ có hiệu quả.

Quyền Lực của Lãnh Đạo bằng cách Nêu Gương

Theo những số liệu mới nhất của Trang Mạng Wikipedia, có khoảng từ 506 triệu đến 1,146 triệu tín đồ Phật Giáo trên thế giới. Ngay cả với con số ước lượng thấp nhất thì đó cũng là một tỷ lệ đáng kể của dân số toàn cầu. Đại đa số những tín đồ đó nhìn vào các vị tăng sĩ và lạt-ma để tìm nguồn cảm hứng, hướng dẫn và lãnh đạo tâm linh. Hơn nữa, nhiều người trong số những Phật tử đó đang sống ở các quốc gia kém phát triển hay đang phát triển, nơi mà việc trao quyền cho nữ giới là rất quan trọng cho việc phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội của các quốc gia đó. Trong một thế giới được kết nối rất nhanh như ngày nay, lời nói chưa đủ. Cần phải hành động.

blankNi Sư Chứng Nghiêm (Cheng Yen), người phụ nữ sáng lập Tổ Chức Từ Tế Quốc tế (International Tzu Chi Foundation), là một gương mẫu về quyền lực của một Ni Sư Phật GiáoNi Sư thọ đại giới ở Đài Loan vào năm 1962, vào thời điểm mà nữ giới có rất ít ảnh hưởng trong chính sách xã hội; ngày nay Ni sư được xem là một biểu tượng nổi bật trên khắp quê hương của bà cũng như trên trường quốc tế. Ni sư đã xây dựng những bệnh viện tối tân nhất có khả năng chống động đất ở Đài Loan năm 1962, dẫn đầu trong việc khuyến khích tái chế rác thải trong đất nước của ni sư, và thiết lập Tổ Chức Cứu Trợ Phật Giáo lớn nhất thế giới. Khi tôi viếng thăm Từ Tế Công Đức Hội ở Đài Loan vào tháng 5 năm 2013, tôi được nhân viên trình bày cho thấy làm cách nào những chai nhựa phế thải được chế biến thành những tấm mền để gởi đến cứu trợ các vùng bị thiên tai, như những vùng bị trận bão Haiyan tàn phá ở Philippines. Phần lớn việc này do những ông bà hưu trí thực hiện, những người đã tìm được ý nghĩa cuộc sống của họ khi cùng làm việc với nhau và nhận được rất nhiều lợi lạc về mặt tình cảm và sức khỏe từ những hoạt động xã hội như thế đem lại cho họ. Họ đang vui hưởng cuộc sống trong những năm cuối cùng của đời mình thay vì lãng phí thời gian nếu chỉ ở nhà. Không có nhà sư hay lat-ma nào đã làm việc gì tương tự có thể so sánh được.

Để Phật Giáo phát triển trong thế giới chúng tachúng ta cần hành động nhiều hơn là chỉ dạy thiền, thuyết giảng các bài pháp đầy hứng khởi, hay làm cho kinh điển được tiếp cận dễ dàng trên mạng Internet. Chúng ta rất giỏi nghiên cứu, xuất bản và truyền bá Phật pháp. Những gì chúng ta chưa được thành công lắm là việc bày tỏ lòng từ bi và vị tha của Giáo Pháp bằng những hành động của chúng taChúng ta đã viết rất nhiều trong sách của chúng ta hơn là nói vài lời tử tế với những người nghèo, đơn độc và tuyệt vọngChúng ta đã xây nhiều chùa hơn các cô nhi viện.

Nữ Giới Lãnh Đạo trong các Quốc Gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy

Tích Lan (Sri Lanka) một quốc gia đa số dân chúng theo Phật giáo Nguyên Thủy, có thể hãnh diện là đã có nữ Thủ Tướng đầu tiên trên thế giới hiện đại, Bà Sirimavo Bandaranaik, vào năm 1960. Miến Điện (Myanmar) đáng lẽ đã có vị lãnh đạo chính phủ phái nữ đầu tiên vào năm 1990 khi Bà Aung San Su Kyi và đảng Liên Minh Quốc Gia Vì Dân Chủ ( National League for Democracy = NLD) của bà đã dành được 59% số phiếu phổ thông trong cuộc tổng tuyển cử toàn quốc, nhưng kết quả đã không được chấp nhận. Năm 2013, Thái Lan đã bầu vị nữ Thủ Tướng đầu tiên của họ là bà Yingluk Shinawatara.

Điều này chứng tỏ rằng cư sĩ Phật Giáo Nguyên thủy có thể chấp nhận phụ nữ trong vai trò lãnh đạo, tại sao Tăng đoàn lại không thể làm như vậy ?

Truyền Thống

Nói chung, các tăng sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy rất bảo thủ. Họ thường tuyên bố rằng họ là những người bảo hộ của “ Phật Giáo Nguyên Thủy cổ xưa “ từ thời Đức Phật. Họ cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của họ là bảo tồn những giáo pháp đầu tiên quý báu và đích thực ấy. Trong bối cảnh này, những gì là truyền thống vào thời Đức Phật đối với vấn đề nữ giới trong Giáo Đoàn ?

Mọi tăng sĩ thuộc mọi truyền thống trong mọi quốc gia, cũng như tất cả những cư sĩ học giả Phật học, đều hoàn toàn chấp nhận rằng đã có những phụ nữ được thọ đại giới, gọi là Tỳ-kheo-ni, vào thời Đức Phật còn tại thế. Hơn nữa, điều này đã được khẳng định trong những bài thuyết giảng xưa cổ đầu tiên rằng một trong những mục tiêu của sứ mạng Đức Phật là ban cho phụ nữ quyền được thọ đại giới:

Này Ananda, một thời ta đang ở tại Uruvela trên bờ sông Ni-Liên-Thuyền (Neranjana) ( hiện nay là Bodh Gaya), dưới gốc cây Bồ đề ( Goatherd’s Banyan tree), khi ta mới thành đạo. Và lúc bấy giờ Ác ma đến chỗ ta ở, khi đến xong liền đứng một bên và nói : “ Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độThiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.”

Này Ananda, khi nghe như vậy, ta nói với Ác ma:” Này Ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩnữ cư sĩ của ta chưa thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa vănduy trì Chánh phápthành tựu Chánh pháp và tùy Pháp; sau khi học hỏi giáo lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu.”( Kinh Mahaparinibbana Sutta / Đại Bát Niết Bàn - Trường Bộ Kinh - bản dịch tiếng Việt của HT Thích Minh Châu)

Phật giáo Nguyên Thủy được thuận lợi hơn những tôn giáo lớn khác trên thế giới bởi vì truyền thống của họ đã công khai ban quyền bình đẳng ấy cho nữ giớiThiên Chúa giáo không có truyền thống bình đẳng giới trong các chức vụ giáo sĩHồi GiáoDo Thái Giáo hay nhiều trường phái khác nhau của Ấn Giáo cũng không có truyền thống này. Phật giáo đứng tách biệt và đi trước thời đại của họ khi ban cho phụ nữ địa vị bình đẳng ấy kể từ “ khi Ta (Đức Phật ) vừa mới chứng đắc giác ngộ tối thượng” ở Bồ Đề Đạo Tràng.

Như vậy, việc truyền đại giới cho phụ nữ là một phần của truyền thống cổ xưa nhất. Đó cũng là ước vọng đã được tuyên bố của Đức Phật.

Những Trở Ngại về Vấn Đề Bình Đẳng Giới trong Giáo Đoàn Nguyên Thủy

Có hai trở ngại chính về việc chấp nhận truyền đại giới Tỳ-kheo-ni trong Phật giáo Nguyên Thủy :

1) Không hiểu biết về việc ai có quyền đưa ra những quyết định điều hành Giáo đoàn.

2) Không hiểu biết về Luật Tạng, là các luật lệ do Đức Phật thiết lập để giới hạn những quyết định nào có thể được hình thành.

Nhiều tăng sĩ Thái lan lập luận rằng một điều luật của quy chế Tăng Già Thái Lan năm 1928 ngăn cấm việc truyền giới cho tu nữ :

Thông Báo

“ Không cho phép bất cứ Tỳ kheo nào truyền giới xuất gia cho phụ nữ.

Bất cứ phụ nữ nào có nguyện vọng được xuất gia như một Sa-di-ni, theo đúng sự chấp thuận của Đức Phật, phải được truyền giới từ một Tỳ-kheo-ni đã thọ đầy đủ đại giới . Đức Phật đã thiết lập qui định rằng chỉ có một Tỳ-kheo-ni đã trải qua hơn 12 tuổi hạ (Vassas ) mới được quyền làm Giáo Thọ (Preceptor).

Đức Phật không cho phép một Tỳ kheo làm Giáo Thọ trong lễ truyền giới này. Thật không may, dòng truyền thừa Tỳ-kheo-ni từ đó đã phai nhạt và mất hẳn. Kể từ đó, không còn Tỳ-kheo-ni thọ đầy đủ đại giới để tiếp tục dòng truyền thừa, do đó không còn Sa-di-ni nào được truyền giới đúng pháp từ một vị Tỳ-kheo-ni đã thọ đầy đủ đại giới.

Như vậy, cả dòng truyền thừa Tỳ-kheo-ni lẫn Sa-di-ni đều đã chấm dứt. Vì thế, bất cứ Tỳ kheo nào truyền giới cho một phụ nữ trở thành Sa-di-ni, có thể nói là vị Tỳ kheo đó không hành xử đúng theo pháp chế Đức Phật đã ban hành. Điểm cốt lõi là vị Tỳ kheo ấy đang làm theo đường lối của chính mình và tách rời khỏi đường lối hướng dẫn Đức Phật đã thiết lập. Đây là điều sẽ gây nguy hại cho Phật giáo và không phải là một tấm gương tốt cho những Tỳ kheo khác.”

Vì vậy, tất cả tăng chúng và các chú tiểu tập sự thuộc cả hai tông phái Nikayas bị cấm không được truyền giới cho bất cứ phụ nữ nào như là Tỳ-kheo-ni ( Bikkhuni), Thức-xoa-ma-ni (Sikkhamana) hay Sa-di-ni( Samenera) kể từ ngày này trở đi ”.

Phra Bancha Somdet Pra Sangharacha Jiao Gromluang Jinawarn Siriwad ( ngày18 tháng 6, PL 2471)

( Đây là thông báo chính thức trích từ Biên Bản Buổi Họp của Hội Đồng Tăng Già Thái Lan , Quyển số 16, trang 157)

...

Đọc tiếp bài từ LInk gốc: https://thuvienhoasen.org/a19547/binh-dang-gioi-va-trao-quyen-cho-nu-gioi-trong-phat-giao-nguyen-thuy

Ajahn Brahm, Perth, Tháng Giêng 2014

XEM NGUYÊN VĂN BẢN ANH NGỮ:
http://thuvienhoasen_org.avcyber.net/p69a19423/gender-equality-and-the-empowerment-of-women-in-theravada-buddhism